NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về hàng thừa kế và di sản thừa kế:
Cụ Nguyễn H3 (chết năm 1995) và cụ Lê Thị Đ1 (chết năm 2011) sinh được 04 người con gồm: Ông Nguyễn Văn Đ2 (chết lúc nhỏ, chưa có vợ con), bà Nguyễn Thị L1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Q và 01 người con nuôi tên Nguyễn Văn H. Do đó, hàng thừa kế của các cụ chỉ còn bà Nguyễn Thị L1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Q và ông Nguyễn Văn H.
Di sản thừa kế của cụ Nguyễn H3 và cụ Nguyễn Thị Đ1 sau khi Nhà nước thu hồi, thực hiện giải phóng mặt bằng hiện còn có tranh chấp, phân chia thừa kế gồm: Phần đất còn lại của thửa đất số 376, theo đo đạc thực tế là 79 m2, có giá trị 1.343.000.000 đồng; 02 lô đất tái định cư (Lô đất số 18 và 19), khu A12, diện tích mỗi lô là 102 m2, tại khu vực K, phường B, thị xã A, tỉnh giá trị mỗi lô là 1.632.000.000 đồng; số tiền đền bù giá trị nhà, giá trị đất bị giải tỏa, thu hồi hiện đang gửi tại Ngân hàng Đ, tiền gốc và lãi tính đến ngày 01-3-2022 là 339.077.476 đồng. Tổng giá trị di sản của cụ H3 và cụ Đ1 là 4.946.077.476 đồng.
[2]. Về yêu cầu của các đương sự:
Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị D yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của bà theo Bản di chúc của cụ Lê Thị Đ1 lập ngày 27-10-2010; di sản còn lại của cụ Nguyễn H3, bà D yêu cầu chia theo pháp luật, bà xin nhận hiện vật; đối với số tiền 332.376.000 đồng mà bà chi phí làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng 02 lô đất (số 18 và 19), khu A12 diện tích mỗi lô là 102 m2, tại khu vực K, phường B, thị xã A, bà yêu cầu bà Nguyễn Thị Q, bà Nguyễn Thị L1, ông Nguyễn Văn H hoàn trả lại cho bà.
Bị đơn là bà Nguyễn Thị Q và người có quyền lợi, nghĩa vụ L1 quan là bà Nguyễn Thị L1, ông Nguyễn Văn H yêu cầu hủy Bản di chúc của cụ Lê Thị Đ1 lập ngày 27-10-2010 và yêu cầu chia di sản của cụ Nguyễn H3 và cụ Lê Thị Đ1 theo pháp luật.
[2.1]. Về Bản di chúc của cụ Lê Thị Đ1 lập ngày 27-01-2010:
Di chúc ngày 27-01-2010 có 02 người làm chứng là ông Nguyễn Văn X và chị Ngô Thị Xuân H4, được UBND thị trấn B (nay là phường B), thị xã A chứng thực số 03, Quyển sổ 01/2010 ngày 27-01-2010. Theo lời khai của ông Nguyễn Văn X, thì ông không nhớ rõ ngày tháng ký xác nhận làm chứng tại Bản di chúc ngày 27-10- 2010, nhưng nhớ cụ thể, chi tiết chị Nguyễn Thị D sang nhà ông mượn Chứng minh nhân dân của ông và khi trở lại, chị D nhờ ông ký Bản di chúc. Trước khi ký, chị D có nói là cụ Lê Thị Được cho chị D được hưởng thừa kế phần tài sản của cụ Đ1 (bút lục số 250); chị Ngô Thị Xuân H4 trình bày, chị không nhớ rõ ngày tháng ký xác nhận làm chứng tại Bản di chúc ngày 27-10-2010, nhưng nhớ cụ thể, chi tiết chị Nguyễn Thị D sang nhà chị mượn Chứng minh nhân dân của chị và khi chị đi ngang qua nhà cụ Lê Thị Đ1, chị D gọi chị vào rồi đưa cho chị xem Bản di chúc rồi nói chị ký. Lúc đầu, chị không ký, nhưng sau khi chị D cho biết nội dung Bản di chúc là cụ Đ1 để lại cho chị D được hưởng thừa kế phần tài sản của cụ Đ1, nên chị đã ký vào bản di chúc này (bút lục số 249).
Theo ông Nguyễn Đình K1 (nguyên Công chức Tư pháp – Hộ tịch phường B) thì ngày 27-10-2010, chị Nguyễn Thị D cầm Giấy phân chia nhà đất do cụ Lê Thị Đ1 lập đến UBND thị trấn B đề nghị chứng thực. Qua kiểm tra thấy không phù hợp, ông đề nghị chị D đưa cụ Đ1 đến trụ sở UBND thị trấn để làm thủ tục lập di chúc theo quy định. Sau khi chị D trình bày, hiện tại cụ Đ1 không đi lại được, thì ông báo cáo lại sự việc cho Chủ tịch UBND thị trấn và Chủ tịch đã cử ông và bà Nguyễn Thị Ngọc T3 đến nhà hướng dẫn cụ Đ1 lập di chúc. Tại trụ sở UBND thị trấn, chị D cung cấp 02 Chứng minh nhân dân của 02 người làm chứng là ông Nguyễn Văn X và chị Ngô Thị Xuân H4, nên ông soạn sẵn nội dung di chúc như ý chí và nguyện vọng của cụ Đ1 tại Giấy phân chia nhà đất. Sau đó, ông cùng bà T2 đến nhà cụ Đ1. Tại đây, ông thấy cụ Đ1 hoàn toàn tỉnh táo và minh mẫn, trả lời toàn bộ câu hỏi của ông, ý chí và nguyện vọng của cụ để lại tài sản cho ai rất rõ ràng, phù hợp với nội dung di chúc mà ông đã soạn sẵn. Tiếp đó, ông thông qua nội dung di chúc cho cụ Được nghe dưới sự chứng kiến của ông Xvà chị H4. Cụ Đ1 thống nhất toàn bộ nội dung di chúc rồi điểm chỉ vào Bản di chúc, sau đó hai người làm chứng là ông X và chị H4 ký lại mục người làm chứng rồi chị D ký vào Bản di chúc. Sau khi các bên điểm chỉ và ký vào Bản di chúc, ông đem về trình Chủ tịch UBND thị trấn B là ông Bùi Bá K2 chứng thực vào Bản di chúc. Ông khẳng định khi tiếp xúc, cụ Lê Thị Đ1 hoàn toàn tỉnh táo, minh mẫn, chỉ không đi lại được và nội dung Bản di chúc do ông lập đúng ý chí, nguyện vọng của cụ Đ1 (bút lục số 247).
Ông Bùi Bá K2 (nguyên Chủ tịch UBND thị trấn B) khẳng định ngày 27-01- 2010, sau khi ông Nguyễn Đình K1 (cán bộ Tư pháp) báo cáo lại sự việc, ông đã cử ông Khánh và bà Nguyễn Thị Ngọc T2 (cũng là cán bộ Tư pháp thị trấn) đến nhà xem xét, giúp đỡ cụ Lê Thị Đ1 lập di chúc. Sau đó, ông K1 báo cáo lại tình hình cụ Lê Thị Đ1 mặc dù không đi lại được, nhưng qua tiếp xúc tinh thần cụ Đ1 minh mẫn, đồng ý toàn bộ nội dung bản di chúc do ông K1 đánh máy và tự điểm chỉ vào Bản di chúc. Lý do ông ký chứng thực tại trụ sở, không có mặt cụ Đ1 là vì cụ Đ1 không thể đi lại được, nhưng về bản chất đã thể hiện rõ ý chí của cụ Đ1 để lại tài sản của mình cho bà D trong lúc tinh thần minh mẫn, cụ Đ1 đã nghe cán bộ tư pháp thông qua và thống nhất toàn bộ nội dung rồi mới điểm chỉ vào di chúc, sự việc trên có hai người làm chứng ký xác nhận. Vì vậy, sau khi kiểm tra các giấy tờ kèm theo và xem xét nội dung Bản di chúc, thấy việc tự định đoạt tài sản của cụ Đ1 là tự nguyện, không trái đạo đức xã hội và không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, nên ông đã ký chứng thực bản di chúc (bút lục số 248).
Căn cứ vào các chứng cứ nêu trên, có đủ cơ sở để xác định Bản di chúc lập ngày 27-01-2010, do cụ Lê Thị Đ1 điểm chỉ và được lập bằng văn bản theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Dân sự quy định; người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép; hình thức của di chúc đúng quy định của pháp luật, nội dung của di chúc không trái pháp luật và đạo đức xã hội, thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của người để lại di sản thừa kế. Vì vậy, theo quy định tại các Điều 646, 647, 648, 649, 650 và 652 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Bản di chúc ngày 27-01-2010 do cụ Lê Thị Đ1 điểm chỉ có hiệu lực và được pháp luật bảo vệ.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định di chúc của cụ Lê Thị Đ1 lập ngày 27- 01-2010, được UBND thị trấn B (nay là phường B), thị xã A, tỉnh Bình Định chứng thực số 03, quyển sổ 01/2010 ngày 27-10-2010 là hợp pháp để làm cơ sở giải quyết vụ án là có căn cứ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được hưởng di sản thừa kế. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cả hình thức và nội dung của di chúc đều trái pháp luật, từ đó “Tuyên bố Di chúc của cụ Lê Thị Đ1 lập ngày 27- 01-2010 không hợp pháp” là không đúng pháp luật, tước bỏ ý chí, nguyện vọng và quyền tự định đoạt của người để lại di sản thừa kế.
[2.2]. Về chia di sản thừa kế:
Bản di chúc của cụ Lê Thị Đ1 lập ngày 27-01-2010 thể hiện nội dung: Tại mục IV di sản để lại thừa kế “Một phần ngôi nhà và một phần đất tọa lạc tại khu vực K, thị trấn B, A, Bình Định. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00944/QSDĐ/I9 ngày 13-01-1996 của UBND huyện A cấp; thửa đất được quyền sử dụng: Thửa đất số 376, tờ bản đồ số 05; địa chỉ thửa đất, khu vực K, thị trấn B, A, Bình Định; nhà và đất để lại thừa kế: Diện tích đất kể cả nhà 181 m2”, theo đo đạc thực tế hiện nay còn lại là 79 m2.
Mặc dù, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị D, xác định di chúc của cụ Lê Thị Đ1 lập ngày 27-01-2010, được UBND thị trấn B (nay là phường B), thị xã A chứng thực là hợp pháp, nhưng khi chia di sản thừa kế lại cộng dồn tài sản của cụ Nguyễn H3, cụ Lê Thị Đ1 lại và chia cho bà Nguyễn Thị D ½ là không đúng, mà cần phải chia lại theo hướng phần tài sản nào mà cụ Lê Thị Đ1 để lại cho bà D theo Bản di chúc lập ngày 27-01-2010 thì chia cho bà D, phần tài sản nào còn lại của cụ H3 và cụ Đ1 thì chia theo quy định của pháp luật.
Như vậy, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 118/2022/DS-PT ngày 22-6-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 47/2022/DS-ST ngày 02-3-2022 của Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định là chưa giải quyết triệt để vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 01/2023/DS-GĐT ngày 04/01/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định GĐT số: 01/2023/DS-GĐT
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn