Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án phúc thẩm vì Tòa phúc thẩm nêu các căn cứ để huỷ án sơ thẩm không hợp lý và không đúng pháp luật

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án phúc thẩm vì Tòa phúc thẩm nêu các căn cứ để huỷ án sơ thẩm không hợp lý và không đúng pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Ngày 10/10/2012, giữa ông Biện Thanh H và bà Nguyễn Thị N1 với cụ Nguyễn Thị S, ông Phạm Thành C và bà Đào Thị L đã xác lập Bản cam kết có nội dung: “Vợ chồng tôi là ông Biện Thanh H, bà Nguyễn Thị N1 có nhận sang tên quyền sử dụng đất và nhà ở tại địa chỉ số H T, Khu phố C, Phường A thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị của bà Nguyễn Thị San … có GCNQSD đất số AD 276282, do UBND thị xã Đ cấp ngày 05/4/2006 và ông Phạm Thành C và bà Đào Thị L có GCNQSD đất số AD 276283, do UBND thị xã Đ cấp ngày 05/4/2006. Hai bên thống nhất nhờ vợ chồng ông H và bà N1 sang tên GCNQSD đất để tiếp cận vay vốn Ngân hàng, vợ chồng tôi đã đồng ý và nhận chuyển nhượng để tiếp cận Ngân hàng vay giúp vốn cho bà S và vợ chồng ông C, bà L. Đây là bản cam kết thỏa thuận nhờ đứng giúp tên tiếp cận vay vốn Ngân hàng. Bà S và vợ chồng ông C, bà L có toàn quyền sử dụng hai ngôi nhà này. Trong thời hạn 02 năm, vợ chồng tôi Biện Thanh H và Nguyễn Thị N1 sẽ hoàn trả lại 02 GCNQSD đất như ban đầu về lại cho bà S và vợ chồng ông C, bà L” (bút lục số 12-13).

Đến ngày 16/10/2012, cụ Nguyễn Thị S, ông Phạm Thành C và bà Đào Thị L lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 102 và thửa đất số 102a, tờ bản đồ số 07, khu phố C, Phường A, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị cho ông Biện Thanh H và bà Nguyễn Thị N1.

Như vậy, việc cụ Nguyễn Thị S, ông Phạm Thành C và bà Đào Thị L thống nhất chuyển quyền sở hữu nhà, đất tại số H T sang tên cho ông Biện Thanh H và bà Nguyễn Thị N1 nhằm mục đích để ông H, bà N1 tiếp cận Ngân hàng vay vốn giúp cho cụ S, ông C và bà L. Trong thời hạn 02 năm, ông H và bà N1 sẽ hoàn trả lại 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như ban đầu về lại cho cụ S, ông C và bà L.

Từ thỏa thuận này của các bên đương sự, có cơ sở để xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất lập ngày 16/10/2012 về việc chuyển nhượng nhà và đất số 81 T giữa cụ S, ông C và bà L với ông H và bà N1 (Giao dịch chuyển nhượng thứ nhất – đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 276282, do UBND thị xã (nay là thành phố) Đông Hà cấp ngày 05/4/2006 mang tên bà Nguyễn Thị S và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 276283, do UBND thị xã (nay là thành phố) Đông Hà cấp ngày 05/4/2006 mang tên anh Phạm Thành C và chị Đào Thị L) là giao dịch giả tạo, được xác lập nhằm che giấu giao dịch nhờ đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay vốn Ngân hàng. Do đó, giao dịch này bị vô hiệu theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

[2] Mặc dù giao dịch chuyển nhượng lần thứ nhất giữa cụ Nguyễn Thị S, ông Phạm Thành C và bà Đào Thị L bị vô hiệu theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2005, nhưng các giao dịch chuyển nhượng tiếp sau giao dịch chuyển nhượng thứ nhất, cụ thể là giao dịch giữa ông Biện Thanh H và bà Nguyễn Thị N1 với ông Lê Văn Q và bà Đỗ Thị Kim D; giữa ông Q, bà D với ông Lê Văn B và bà Đỗ Thị Thúy H1; giữa ông B, bà H1 với ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị G được thực hiện không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, những người chuyển nhượng đều đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển nhượng công khai theo giá thị trường, nên người nhận chuyển nhượng không thể biết được giao dịch cam kết ngầm giữa ông Biện Thanh H và bà Nguyễn Thị N1 với cụ Nguyễn Thị S, ông Phạm Thành C và bà Đào Thị L. Ông T bà G là người nhận chuyển nhượng đất sau cùng vào ngày 11-12-2015 thì sang năm 2016 đã được nhận nhà và quản lý sử dụng cho đến nay. Các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn thành và có hiệu lực pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, do đó Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét là có căn cứ. Nếu sau này các đương sự có yêu cầu, thì có thể khởi kiện thành vụ án khác để được xem xét, giải quyết về hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật.

[3] Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm là không có cơ sở, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình, bởi lẽ giao dịch thứ nhất bị vô hiệu, nhưng các giao dịch tiếp sau đó có hiệu lực pháp luật và hiện nay ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị G đang là người quản lý, sử dụng nhà đất nêu trên. Quá trình giải quyết vụ án, các bên không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, nên không cần phải làm rõ thực trạng về tài sản tranh chấp. Bản án phúc thẩm cho rằng cần thu thập chứng cứ có sửa chữa nhà hay không là không cần thiết, bởi đương sự chưa chứng minh được có hay không việc đầu tư sửa nhà, nếu sửa trước 2015 thì đã được tính vào giá trị chuyển nhượng, còn sau 2015 thì không thể do ông T bà G đã quản lý nhà đất. Việc các đương sự khởi kiện hay rút đơn khởi kiện là quyền của các đương sự, đồng thời đã rút đơn nên tranh chấp đã dừng lại, nên bà D ông Q có quyền chuyển nhượng cho người khác.

[4] Từ phân tích trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (cụ S, ông C và bà L), tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, giữa bên chuyển nhượng là cụ Nguyễn Thị S với bên nhận chuyển nhượng là ông Biện Thanh H, bà Nguyễn Thị N1 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, giữa bên chuyển nhượng là ông Phạm Thành C, bà Đào Thị L với bên nhận chuyển nhượng ông là Biện Thanh H, bà Nguyễn Thị N1 là vô hiệu; đồng thời, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tuyên vô hiệu các hợp đồng chuyển nhượng tiếp theo sau là có căn cứ. Việc tuyên xử như bản án sơ thẩm là hợp lý, đúng với quy định bảo vệ người thứ ba ngay tình, bảo vệ sự ổn định đối với các giao dịch dân sự hợp pháp, ổn định xã hội. Do bản án phúc thẩm nêu các căn cứ để huỷ án sơ thẩm không có căn cứ pháp luật và không hợp lý; vì vậy, cần chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 31/2024/KN-DS ngày 23/8/2024 của Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để huỷ bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[Nguồn: Quyết định GĐT số 74/2024/DS-GĐT ngày 21/9/2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định GĐT số: 74/2024/DS-GĐT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan