NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Về quyền khởi kiện của nguyên đơn:
Theo nguyên tắc kế toán và theo Thông báo số 145/2013/TB-BĐ1 ngày 08-4-2013 của Công ty B, thì tiền chi hoạch toán được vào sổ sách tài chính của Công ty B khi Công ty G góp vốn bằng hình thức nộp tiền mặt tại Văn phòng Công ty B (có phiếu thu) hoặc chuyển khoản vào tài khoản của Công ty B. Vì vậy, việc ông Văn Công Q sử dụng tài khoản cá nhân của mình chuyển vào tài khoản cá nhân của bà Hòang Thị Kim C là không đúng về nguyên tắc góp vốn, chưa được xem là đã hòan thành việc góp vốn theo Hợp đồng hợp tác giữ hai bên. Trong trường hợp này, nếu bà Hòang Thị Kim C rút tiền và nộp tiền mặt cho Công ty B hoặc chuyển khoản vào tài khoản của Công ty B hoặc nộp cho Trung tâm giải phóng mặt bằng thì việc góp vốn của Công ty G mới được xem là hòan thành.
Căn cứ kết quả xác minh của Tòa án cấp phúc thẩm thì sau khi ông Văn Công Q chuyển vào tài khoản của bà Hòang Thị Kim C 2.144.505.804 đồng, bà C đã rút tiền mặt là 2.144.000.000 đồng, nhưng sau đó không chuyển cho Trung tâm giải phóng mặt bằng (bút lục số 09, số 318); đồng thời, Công ty B yêu cầu cá nhân bà C giữ số tiền này từ ngày 10-10-2013 (nhằm mục đích kết chuyển sang Dự án Peaceful Land, do dừng Dự án Bách Đạt 1, nhưng sau đó hai bên lại không ký kết Hợp đồng hợp tác đầu tư Dự án Peaceful Land). Ngòai ra, Công ty G cũng có Văn bản số 16/02/15/GT-BDS, yêu cầu Công ty B giữ nguyên hiện trạng số tiền 2.144.505.804 đồng, mà không kết chuyển sang dự án khác để phục vụ cho việc điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra (bút lục số 20). Như vậy, số tiền 2.144.505.804 đồng cũng chưa được chuyển sang Dự án Peaceful Land.
Từ năm 2018, bà Hòang Thị Kim C không còn là giám đốc Công ty B, bà C đã yêu cầu Công ty B xác định ai nhận lại số tiền này để bà C bàn giao, nhưng Công ty B yêu cầu bà C tiếp tục giữ số tiền này cho đến khi công ty có thông báo (bút lục số 07, số 08). Sau khi khởi kiện, bà C đã nộp 2.144.505.804 đồng vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự quận Th để đảm bảo thi hành án. Quá trình giải quyết vụ án, Công ty B cũng xác định bà C là người giữ số tiền này và công ty không đồng ý nhận lại số tiền trên do Dự án Bách Đạt 1 và Dự án Peaceful Land đã chuyển cho chủ đầu tư khác. Như vậy, không có chứng cứ nào xác định số tiền 2.144.505.804 đồng mà ông Q chuyển cho bà C đã được nộp vào hoạch toán vào sổ sách tài chính của Công ty B và Công ty B đã sử dụng số tiền này cho Dự án Bách Đạt 1; do đó, việc bà C giữ 2.144.505.804 đồng là với tư cách cá nhân trên cơ sở ông Q ủy quyền cho bà C nộp cho Công ty B để góp vốn trong Dự án Bách Đạt 1. Do Công ty B, Công ty G và ông Q không chịu nhận lại số tiền nêu trên, nên bà C mới khởi kiện ông Q nhằm mục đích chuyển trả lại cho chính người chuyển tiền.
Từ khi bà Hòang Thị Kim C giữ 2.144.505.804 đồng, ông Q liên tục có đơn tố cáo bà C và Công ty B lừa đảo, cố tình chiếm đoạt số tiền này. Bà C cho rằng việc các cơ quan chức năng liên tục điều tra để giải quyết tố cáo của ông Q đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, uy tín, việc làm của bà. Theo quy định tại Điều 186 củ Bộ luật Tố tụng dân sự, thì bà C được quyền khởi kiện ông Q khi cho rằng ông Q là người trực tiếp xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà để chấm dứt việc phải có trách nhiệm giữ số tiền nêu trên. Vì vậy, nếu Tò án cấp phúc thẩm cho rằng đây là tranh chấp hợp đồng hợp tác giữ hai công ty, cá nhân bà C không có quyền khởi kiện ông Q thì phải hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, do nguyên đơn không có quyền khởi kiện theo quy định tại điểm khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chứ không được tự ý xác định đương sự và quan hệ tranh chấp ngòai đơn khởi kiện và yêu cầu của đương sự.
[1.2]. Về việc xác định đương sự và quan hệ tranh chấp:
Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Hòang Thị Kim C là nguyên đơn (do bà C là người khởi kiện), ông Văn Công Q là bị đơn (do ông Q là người bị kiện); người có quyền lợi, nghĩ vụ liên quan là Công ty B và Công ty G (do có liên quan trong vụ án) là có căn cứ, đúng quy định tại Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Q không có yêu cầu phản tố, Công ty B và Công ty G không có yêu cầu độc lập để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp các hợp đồng hợp tác giữa hai bên. Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp “Yêu cầu chấm dứt hợp đồng ủy quyền” là đúng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án chỉ được tự mình xác định lại quan hệ tranh chấp cho đúng bản chất vụ án khi không làm thay đổi tư cách đương sự. Vì vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm phải xác định lại người tham gia tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp là không có căn cứ, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Nếu Tò án cấp phúc thẩm thấy yêu cầu khởi kiện của bà C là không có căn cứ, thì chỉ có quyền không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C theo quy định tại khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, nếu Tòa án cấp sơ thẩm xác định lại người tham gia tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp theo yêu cầu của Tò án cấp phúc thẩm là giải quyết ngòai phạm vi yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Hiện nay Tòa án nhân dân quận Hải Châu đang thụ lý vụ án kinh doanh thương mại, giữa nguyên đơn là Công ty B với bị đơn là Công ty G (do Tòa án nhân dân quận Th chuyển thẩm quyền) về việc chấm dứt Hợp đồng hợp tác giữ hai bên đối với Dự án Bách Đạt 1 (không có số tiền 2.144.505.804 đồng) và đến ngày 16-8- 2022, Công ty G mới có yêu cầu phản tố. Như vậy, việc giải quyết vụ án dân sự này sẽ làm cơ sở để giải quyết vụ án kinh doanh thương mại mà Công ty B đã khởi kiện.
[1.3.]. Về phạm vi xét xử phúc thẩm:
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Văn Công Q có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm huỷ tòan bộ bản án sơ thẩm, với lý do: Tò án nhân dân quận Th giải quyết vụ án là không đúng thẩm quyền, do bị đơn có nơi cư trú quận Hải Châu và vụ việc đang có khiếu nại tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng. Như vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm hủy án để giải quyết lại (với lý do bản chất vụ án là tranh chấp giữ hai công ty, Tòa án cấp sơ thẩm xác định không đúng người tham gia tố tụng, quan hệ tranh chấp) là vượt quá phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 293 củ Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
Bà Hòang Thị Kim C khởi kiện yêu cầu tuyên bố chấm dứt việc ủy quyền, do việc ủy quyền không thể thực hiện được, bà C chuyển trả lại cho ông Q số tiền 2.144.505.804 đồng là có căn cứ, bởi lẽ: Ông Văn Công Q chuyển tiền từ tài khoản cá nhân của ông Q vào tài khoản cá nhân của bà C để nộp cho Công ty B (mục đích thanh toán tiền giải tỏa đền bù Dự án Bách Đạt 1, sau đó dự định kết chuyển sang Dự án Peceful Land), nhưng thực tế bà C chưa nộp cho Công ty B và Công ty B cũng không sử dụng số tiền này cho Dự án Bách Đạt 1; đồng thời, hai bên cũng không ký kết Dự án Peaceful Land. Công ty G yêu cầu giữ nguyên trạng số tiền này để phục vụ cho công tác điều tra mà không đồng ý kết chuyển sang dự án khác. Từ ngày 10-7-2017, Dự án Bách Đạt 1 và Dự án Peaceful Land đã được bàn giao cho Công ty Cổ phần Bách Đ theo Quyết định số 2450/QĐUBND ngày 10-7-2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (bút lục số 172 đến số 175). Quá trình giải quyết vụ án, Công ty B không đồng ý nhận 2.144.505.804 đồng và đề nghị Tòa án buộc bà C trả tiền cho chính người chuyển tiền là ông Q.
Như vậy, việc ông Văn Công Q ủy quyền cho bà Hòang Thị Kim C nộp tiền vào Công ty B để góp vốn Dự án Bách Đạt 1 là không thể thực hiện được. Công ty G cũng không có ý kiến đề nghị trả tiền cho công ty. Chính ông Q cũng xác định do Công ty G không có tiền, nên ông Q dùng tài khoản cá nhân chuyển cho bà C và hiện nay ông Q không còn là người đại diện theo pháp luật của Công ty G. Quá trình giải quyết vụ án, ông Q cũng không yêu cầu bà C bồi thường thiệt hại do không thực hiện việc ủy quyền; mặt khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 588 của Bộ luật Dân sự năm 2005 (nay là Điều 569 củ Bộ luật dân sự năm 2015), trong trường hợp ủy quyền không có thù lao, bên được ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên ủy quyền biết một thời gian hợp lý và không phải bồi thường. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C, tuyên bố chấm dứt Hợp đồng ủy quyền giữ bà Hòang Thị Kim C và ông Văn Công Q, buộc bà C hòan trả lại cho ông Q 2.144.505.804 đồng là đúng pháp luật. Tò án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Hòang Thị Kim C và Công ty B.
Như vậy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có căn cứ, nên được Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 11/2023/DS-GĐ ngày 10/02/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số: 11/2023/DS-GĐ
———–
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn