NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tòa án cấp sơ thẩm đã nhiều lần đưa vụ án ra xét xử và đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập cho các đương sự, nhưng phía bị đơn là ông Ngô Nguyễn Phúc Bửu L luôn đưa ra lý do để trì hoãn việc tham gia phiên tòa, cụ thể là phiên tòa ngày 18/11/2019 bị đơn xin hoãn để thu thập thêm chứng cứ, sau đó bị đơn có đơn xin thay đổi người tiến hành tố tụng và tiếp tục xin hoãn phiên tòa ngày 16/12/2019 với lý do vắng mặt người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và chờ kết quả giải quyết đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, đến phiên tòa ngày 20/3/2020 bị đơn vắng mặt và không có đơn xin hoãn phiên tòa gửi Hội đồng xét xử mà lại gửi đơn cho Viện kiểm sát cấp sơ thẩm với lý do người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn đang đi công tác nước ngoài, đồng thời trong nước đang có dịch COVID-19 và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã có Chỉ thị số 02/2020/CT-CA ngày 10/3/2020 về công tác đảm bảo phòng chống dịch trong ngành Tòa án.
[1.2] Tòa án cấp sơ thẩm đã phân tích, đánh giá lý do xin hoãn phiên tòa của bị đơn là không có cơ sở chấp nhận là có căn cứ, đúng pháp luật. Bởi lẽ bị đơn không gửi đơn xin hoãn phiên tòa đến Tòa án, mà Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ biết được do đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa; thông qua nội dung đơn, bị đơn cũng không xuất trình được chứng cứ chứng minh người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn đang đi nước ngoài, trong khi thời điểm này do tình hình dịch bệnh COVID-19 bùng phát ở nhiều Quốc gia nên việc xuất nhập cảnh là rất hạn chế; hơn nữa, việc Tòa án cấp sơ thẩm mở phiên tòa để xét xử vụ án này vào thời điểm 23/3/2019 không vi phạm Chỉ thị số 02/2020/CT-CA ngày 10/3/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, bởi lẽ Chỉ thị số 02 nêu trên quy định tạm dừng mở phiên tòa và triệu tập đương sự đến Tòa án đối với các vụ án đang còn trong thời hạn giải quyết. Vụ án tranh chấp về việc nuôi con giữa bà H với ông L được Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý ngày 22/8/2019, đến ngày xét xử sơ thẩm 23/3/2019 là 6 tháng 29 ngày là đã hết thời hạn giải quyết theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự, nên theo điểm 2.3 Chỉ thị 02 nêu trên thì Tòa án cấp sơ thẩm mở phiên tòa và triệu tập các đương sự tham gia phiên tòa để xét xử “nhưng phải thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch” là hoàn toàn phù hợp. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự là đúng pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng bị đơn xin hoãn phiên tòa ngày 20/3/2020 là có lý do chính đáng và do trở ngại khách quan là không có căn cứ.
[2] Về việc giải quyết nội dung vụ án:
[2.1] Tại Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 08/2018/HN-PT ngày 16/3/2018, Tòa án nhân dân thành phố G đã quyết định ghi nhận sự tự nguyện của bà Đỗ Thị Kim H đồng ý giao con chung là cháu Ngô Bửu Lng cho ông Ngô Nguyễn Phúc Bửu L trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật các bên đã thực hiện thỏa thuận nêu trên.cháu Lng sống chung với ông L và cha mẹ đẻ của ông L ở thành phố G. Bà H sống ở Thành phố C và vẫn dành thời gian để về G thăm con. Tuy nhiên, theo bà H thì từ đầu năm 2019, ông L nhiều lần có hành vi cản trở bà thăm, chăm sóc cháu Lng nên bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lng từ ông L sang cho bà. Phía ông L phủ nhận ý kiến của bà H, cho rằng sau khi ly hôn, ông vẫn tạo điều kiện cho bà H thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung bình thường và không hề có sự cản trở nào, nên ông L không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà H.
[2.2] Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện, bà H cung cấp các Vi bằng số 350/2019/VB-TPL ngày 21/06/2019, số 385/2019/VB-TPL ngày 14/07/2019, và số 620/2019/VB-TPL ngày 10/11/2019. Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 61/2009/NĐ-CP thì: “Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác”. Các vi bằng do bà H cung cấp có nội dung thể hiện việc bà H đến nhà ông L để được gặp con, đưa con đi chơi nhưng bị ông L đưa ra các lý do từ chối. Nội dung vi bằng hoàn toàn phù hợp với lời trình bày của ông L tại các bút lục 126 đến bút lục 129, ông L cho rằng bà H về thăm con bất chợt, có nhiều đề nghị không thích hợp trong việc đưa đón cháu Lng đi chơi…, nên nhiều lần ông không đồng ý, nhưng là để đảm bảo sức khỏe, sự học tập và sinh hoạt của cháu Lng. Xét bà H cư trú cách xa cháu Lng gần 200km, nên mỗi lần muốn về G thăm con thì cũng phải thu xếp thời gian, công việc. Lẽ ra ông L nên thông cảm mà tạo điều kiện cho bà H được thăm gặp, gần gũi con nhiều hơn mới đúng. Việc ông L lấy lý do cháu Lng bị bệnh, bận học hay lý do khác, để từ chối cho bà H thăm gặp con là vi phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 82 và khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.
[2.3]cháu Lng được ông L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc nhưng ông L thừa nhận cháu hay bị ốm, thậm chí có lúc còn bị bệnh nặng. Theo bà H trình bày thì có lần cháu Lng bệnh nặng nhưng ông L cũng không báo cho bà H biết để bà H được chăm sóc con. Ngoài ra, hồ sơ vụ án thể hiện bản thân ông L cũng thường xuyên đi công việc xa nhà, đi nước ngoài để cháu Lng ở nhà cho ông bà nội của cháu chăm sóc. Bà H còn trình bày là qua tiếp xúc vớicháu Lng thì được biết ông L và những người trong gia đình ông L giáo dục cháu Lng những điều không tốt về mẹ của cháu. Vì vậy, việc bà H thường xuyên gần gũi, chăm sóc cho cháu Lng là cần thiết cho sự phát triển về thể chất, cũng như tâm sinh lý của cháu Lng.
[2.4] Xét điều kiện kinh tế để nuôi con chung thì thấy: Hiện tại bà H có chỗ cư trú ổn định ở Quận B, Thành phố C, điều kiện sinh hoạt tốt. Ngoài ra, bà H còn sở hữu một căn hộ khác tại khu dân cư ở huyện X, Thành phố C. Ngoài thu nhập từ hoạt động nghệ thuật, bà H còn là chủ doanh nghiệp của Công ty TNHH Y và Công ty Cổ phần LS và còn là Đại sứ thương hiệu cho một Bệnh viện thẩm mỹ ở Thành phố C với hợp đồng kéo dài nhiều năm, có tiền tiết kiệm gửi ngân hàng. Trong khi ông L không nhà riêng, mà vẫn cùng cháu Lng đang sống chung với cha mẹ đẻ của ông L; thu nhập của ông L chỉ ở mức trung bình. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà H cũng cam kết là nếu bà được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lng thì bà sẽ tạm ngưng tham gia các hoạt động nghệ thuật, để tập trung vào việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lng, đồng thời cũng tạo mọi điều kiện để ông L cũng như các thành viên trong gia đình ông L cùng tham gia chăm sóc, giáo dục cháu Lng, để cháu Lng nhận được sự thương yêu, quan tâm từ cả hai phía gia đình nội ngoại. Từ đó, cho thấy bà H có điều kiện đầy đủ hơn ông L về kinh tế để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tốt hơn so với ông L.
[2.5] Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng “Cấp sơ thẩm không làm rõ, cũng không yêu cầu bà H chứng minh ông L không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cũng như không xác minh điều kiện hoàn cảnh gia đình, việc nuôi con, chăm sóc, giáo dục con của ông L tại địa phương, là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ” cũng như nhận định Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm về thủ tục tống đạt cho các đương sự nên hủy bản án sơ thẩm. Như phần nhận định tại mục [1] về tố tụng, các mục [2.2], [2.3] và [2.4] trên, việc hủy bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm là không đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét thấy các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập đầy đủ, rõ ràng; có đủ căn cứ để làm rõ các tình tiết trong vụ án. Tại Tòa án cấp phúc thẩm, ông L cũng không cung cấp thêm tình tiết nào mới so với các chứng cứ đã cung cấp tại cấp sơ thẩm. Xuất phát từ quyền lợi về mọi mặt của cháu Lng, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định giao cháu Lng cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình nên cần hủy Bản án phúc thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân thành phố G và giữ nguyên Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận F, thành phố G.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 18/2021/HNGĐ-GĐT Ngày 23/02/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định GĐT: Số 18/2021/HNGĐ-GĐT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn