Feel free to go with the truth

Trang chủ / BIỂU MẪU VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án phúc thẩm giữ án sơ thẩm công nhận hợp đồng tặng cho nhà đất thực tế

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án phúc thẩm giữ án sơ thẩm công nhận hợp đồng tặng cho nhà đất thực tế

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về nguồn gốc đất đang tranh chấp: Thửa đất 89 có nguồn gốc từ việc ông V bà L nhận chuyển nhượng của ông Phượng bà Thoa vào năm 1993 bằng số tiền của ông V bà L có được do bán tài sản ở quê và được UBND huyện Ea K cấp GCNQSDĐ ngày 20/9/1993; thửa đất số 230a có nguồn gốc từ việc ông V bà L nhận chuyển nhượng từ ông Y Gan Byă vào năm 1998, được UBND huyện Ea K cấp GCNQSDĐ ngày 20/01/1999. Ông V cho rằng thửa đất số 230a là do con trai ông là ông Nguyễn Phương Nam bán rẫy và hoa màu mua được, đất cấp cho hộ gia đình ông V và có công sức đóng góp của hai con trai ông là ông Nam và ông Tiến nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh số tiền mua đất là do ông Nam đóng góp, ông Nam và ông Tiến cũng không cung cấp được tài liệu chứng minh công sức đóng góp của mình vào hai thửa đất nói trên. Ngoài ra, từ thời điểm ông V bà L tặng cho quyền sử đụng đất cho ông Phương cho đến thời điểm xảy ra tranh chấp, ông Nam và ông Tiến cũng không có ý kiến gì về việc tặng cho đất của ông V bà L. Như vậy, ông V bà L là chủ thể có quyền chuyển quyền sử dụng, tặng cho đất, phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 73 Luật đất đai năm 1993.

[2] Quá trình tặng cho quyền sử dụng đất: Tài liệu trong hồ sợ vụ án thể hiện, ngày 20/5/2002 ông V viết tay “Đơn sang nhượng đất” có nội dung: “Tên tôi Nguyễn Quang Việt…Tôi có thổ đất số sổ B150370 và D0451911. Nay tôi chuyển nhượng cho con là Nguyễn Việt Phương…với diện tích 1.000m2: Phía Đông rộng 20m giáp đường 8m; Phía Bắc dài 50m giáp ông V; Phía Tây rộng 20m giáp anh Nam và anh Hưng. Phía Nam dài 50m giáp chị Liên”. Đơn sang nhượng đất có chữ ký của vợ chồng ông V, bà L và ông Phương.

Đơn được địa chính xã xác nhận nội dung “Theo đơn xin cho lại đất của ông Nguyễn Quang V cho con Nguyễn Việt Phương là có thực” và được Chủ tịch UBND xã Ea Kmút chứng thực (BL 04). Như vậy, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông V bà L với ông Phương được lập thành văn bản và có công chứng chứng thực là đảm bảo về mặt hình thức theo quy định tại Điều 463 BLDS năm 1995.

Quá trình hòa giải tại địa phương, tại Biên bản làm việc ngày 07/5/2019 (BL15)   ông Nguyễn Quang V cũng thừa nhận việc cho con trai là ông Phương diện tích đất nêu trên.

[3] Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Phương Nam thừa nhận “Đơn sang nhượng đất” ngày 20/5/2002 là do bố mẹ ông tặng cho anh trai là Nguyễn Việt Phương. Xét nội dung “Đơn sang nhượng đất” ngày 20/5/2002, mặc dù không ghi rõ tên số thửa đất nhưng có ghi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 150373 và D 0451911, có tứ cận và diện tích rõ ràng. Bản thân ông V cũng thừa nhận chữ ký và chữ viết trong Đơn là của ông. Sau đó, Đơn sang nhượng đất đã được Ủy ban nhân dân xã xác nhận ngày 22/5/2002.

Như vậy, về mặt hình thức và thủ tục là phù hợp với quy định của pháp luật. Hơn nữa, sau khi được tặng cho quyền sử dụng đất, ông Nguyễn Việt P cùng gia đình vợ con đã làm nhà ở kiên cố, trồng cây ăn quả và sinh sống ổn định từ năm 2002 đến nay. (Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và Biên bản định giá tài sản). Các đương sự khác trong vụ án đều ở cạnh nhà ông Phương và không có ý kiến phản đối hay khiếu kiện gì về việc ông Phương làm nhà và ở trên đất từ đó đến nay.

[5]. Ngày 08/12/2020, Tòa án nhân dân huyện Ea K tiến hành lấy lời khai của ông Tào Văn Hân nguyên Chủ tịch UBND xã Ea Kmút (người đã chứng thực trong Đơn sang nhượng đất), ông Vũ Văn Hùng là cán bộ địa chính xã (người xác nhận trong Đơn sang nhượng đất) đều xác định mục đích của việc xác nhận, chứng thực trong Đơn sang nhượng đất là xác thực việc ông V tặng cho đất ông Phương (Bút lục số 116, 117). Tại Biên bản xác minh ngày 21/6/2021, Thôn trưởng thôn Đoàn Kết cũng xác định nguồn gốc 02 thửa đất tranh chấp là do ông V tặng cho ông Phương (Bút lục số 281).

[6]. Hơn nữa, sau khi tặng cho đất phía bị đơn đã nhiều lần dùng tài sản để thế chấp vay tiền tại Ngân hàng nên phía nguyên đơn chưa làm thủ tục chỉnh lý sang tên được. Ông Phương, bà Thu cũng khai trong suốt quá trình giải quyết vụ án vì tin tưởng bố mẹ nên chờ con cái lớn sẽ làm thủ tục sang tên cho con luôn. Đồng thời, hiện nay ông Phương bị tai nạn và không có khả năng lao động, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là những tình tiết mà nội dung kháng nghị đã đề cập phù hợp với tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Nội dung việc tặng cho phù hợp với quy định tại điều 461 BLDS năm 1995. Trên thực tế, ông V bà L đã chuyển giao thửa đất, ông Phương bà Thu đã nhận đất, sử dụng đất ổn định, đã sử dụng đất như: trồng cây lâu năm, xây nhà trên đất vào năm 2004, sửa, cới nới nhà cửa năm 2013 và những thành viên trong gia đình ông V bà Lan không ai có ý kiến phản đối, cho đến năm 2018 mới có tranh chấp.

[7]. Ông V bà L trình bày, việc viết giấy sang nhượng đất cho ông Phương mục đích là cho ông Phương mượn để ở, sau này có cho hoặc là bán là tùy thuộc vào ông nhưng ông Phương không thừa nhận điều này, ông V bà L không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Đối với ý kiến của ông V cho rằng ông Phương bà Thu không làm tròn bổn phận của người con, đối xử với bố mẹ không ra gì nên ông V thay đổi ý chí không tiếp tục tặng cho đất cho ông Phương nữa. Xét nội dung thỏa thuận trong giấy viết tay ngày 20/5/2002, các bên không thỏa thuận về điều kiện tặng cho quyền sử dụng đất, ông V bà L cũng không cung cấp được tài liệu về việc các bên thỏa thuận về điều kiện tặng cho nên ý kiến trình bày của ông V không có căn cứ chấp nhận.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấy Quyết định kháng nghị số 01/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 08/12/2021 của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có căn cứ.

[Nguồn: QĐ GĐT số 09/2022/DS-GĐT Ngày 12/01/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:

📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn

♥️ Fanpage and Group:

https://www.facebook.com/fdvnlawfirm

https://www.facebook.com/lawyersindanang

https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat

https://www.facebook.com/groups/saymengheluat

https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam

🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Xem file đính kèm toàn văn QĐ GĐT: 09/2022/DS-GĐT

Bài viết liên quan