NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Thửa đất số 20, Tờ bản đồ số 5 có diện tích 887,6 m2 ; Thửa đất số 21, Tờ bản đồ số 5 có diện tích 2.035,8 m2 ; Thửa đất số 30, Tờ bản đồ số 5 có diện tích 1.627,9 m2 ; Thửa đất số 31, Tờ bản đồ số 5 có diện tích 1.745,8 m2 ; Thửa đất số 41, Tờ bản đồ số 5 có diện tích 2.443,6 m2 ; Thửa đất số 42, Tờ bản đồ số 5 có diện tích 1.654,6 m2 ; Thửa đất số 43, Tờ bản đồ số 7 có diện tích 1.571,5 m2 ; Thửa đất số 3, Tờ bản đồ số 12 có diện tích 1.346,3 m2 và Thửa đất số 4, Tờ bản đồ số 12 có diện tích 989,2 m2 đều thuộc xã H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai có nguồn gốc thuộc một phần trong tổng diện tích hơn 03 ha đất của ông Nguyễn Văn V (cha bà Nguyễn Thị H) được chế độ cũ (Việt Nam Cộng Hòa) cấp trích lục địa bộ ngày 25/5/1973. Ông V chết năm 1968, toàn bộ diện tích đất trên do bà H trực tiếp canh tác. Năm 1978-1979, thực hiện chủ trương, chính sách đất đai của Nhà nước, bà H thừa nhận đã đưa toàn bộ diện tích đất nêu trên vào Tập đoàn sản xuất (Hợp tác xã) xã H để sản xuất nông nghiệp tập thể.
[2] Sau năm 1981, Tập đoàn sản xuất nông nghiệp giải thể thì toàn bộ các thửa đất trên được giao cho các hộ xã viên sử dụng gồm: Hộ ông Nguyễn Văn C sử dụng Thửa đất số 20, 21 Tờ bản đồ số 5; hộ ông Nguyễn Văn L sử dụng Thửa đất số 30, 31, 42 Tờ bản đồ số 5; hộ ông Lê Văn T sử dụng Thửa đất số 41, Tờ bản đồ số 5 (ông T chết, chị Lê Thị Kim T là con tiếp tục quản lý, sử dụng); hộ bà Đặng Thị L sử dụng Thửa đất số 43, Tờ bản đồ số 7 (bà L chết, bà Đặng Thị Đ là em của bà L tiếp tục sử dụng); hộ ông Nguyễn Văn L sử dụng Thửa đất số 3, 4 Tờ bản đồ số 12 (ông L chết năm 2005, anh Nguyễn Quốc V là con tiếp tục quản lý, sử dụng).
[3] Như vậy, toàn bộ các thửa đất nêu trên bà H đã đưa vào Tập đoàn sản xuất nông nghiệp để sử dụng theo chính sách đất đai của Nhà nước. Sau đó, Nhà nước đã giao cho các hộ xã viên để các hộ này tiếp tục sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật đất đai năm 2003 (nay là khoản 5 Điều 26 Luật đất đai 2013) thì “Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Do đó, bà H không còn quyền sử dụng đối với các thửa đất nêu trên.
[4] Ngày 09/5/2000, bà H kê khai, đăng ký đề nghị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nêu trên. Ngày 31/7/2009, UBND thành phố B cấp 09 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tương ứng với 09 thửa đất cho bà Nguyễn Thị H. Quá trình kê khai, đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 09 thửa đất nêu trên cho bà H thể hiện: Khi xét duyệt hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng quy định vì, UBND xã H không tiến hành kiểm tra thực tế, chỉ căn cứ theo hồ sơ kê khai của bà H cung cấp nên không phát hiện những người đang quản lý, sử dụng đất và canh tác thực tế từ năm 1981 đến nay, không hỏi ý kiến những người đang sử dụng đất này; Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh Đồng Nai – Chi nhánh B không tiến hành kiểm tra hiện trạng thực địa, không lập Biên bản xác định ranh giới, mốc giới theo quy định mà chỉ xuất Trích lục bản vẽ thửa đất, sử dụng Biên bản ranh giới, mốc giới được lập từ năm 1998 (có dấu hiệu bị tẩy xóa, chỉnh sửa tên người sử dụng đất) để đề nghị UBND phố B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H là không đúng quy định của pháp luật.
[5] Do vậy, ngày 29/02/2016, UBND thành phố B ban hành 07 quyết định gồm: Quyết định số 731/QĐ-UBND, số 732/QĐ-UBND, số 733/QĐ-UBND, số 734/QĐ-UBND, số 735/QĐ-UBND, số 736/QĐ-UBND và số 737/QĐ-UBND thu hồi 07 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà H (tương ứng với các thửa đất gồm: Thửa đất số 31, Tờ bản đồ số 5; Thửa đất số 3, 4, Tờ bản đồ số 12; Thửa đất số 30, Tờ bản đồ số 5; Thửa đất số 43, Tờ bản đồ số 7; Thửa đất số 21, Tờ bản đồ số 5 và Thửa đất số 20, Tờ bản đồ số 5) và ngày 07/10/2016, UBND thành phố B ban hành các Quyết định số 6116/QĐ-UBND, Quyết định số 6117/QĐ-UBND thu hồi 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà H đối với các Thửa đất số 41, 42, Tờ bản đồ số 5 xã H với lý do việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nêu trên cho bà Nguyễn Thị H là không đúng đối tượng sử dụng đất là có căn cứ.
[6] Quá trình giải quyết vụ án, bà H xuất trình các tài liệu chứng cứ là “Giấy xác nhận không đăng ký ruộng” ghi ngày 14/4/2000, có nội dung: Những xã viên đang sử dụng đất gồm ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn C, ông Nguyễn Văn C, ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn N, ông Lữ N, ông Lê Minh T, ông Huỳnh Văn U, bà Đặng Thị Đ đều đồng ý (ký tên) không đăng ký quyền sử dụng đất mà giao lại cho bà H để bà H đăng ký quyền sử dụng đất; các biên lai thu thuế sử dụng đất thể hiện bà H đã thực hiện nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp từ năm 1994-2002, năm 2001-2002; bản sao Biên bản hòa giải tranh chấp đất đai của UBND xã H, thành phố B ngày 07/4/2015 giữa bà H và các hộ dân đang sử dụng đất có nội dung các hộ dân có ý kiến phần đất ruộng họ đang trực tiếp sản xuất do 8 được Hợp tác xã cấp cho từ năm 1978, quá trình sử dụng có đóng thuế đầy đủ, nay bà H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đề nghị bà H phải hỗ trợ phần nào công sức cho các hộ dân.
[7] Các Thửa đất số 20, 21, 30, 31, 41, 42, Tờ bản đồ số 5 tại xã H hiện do hộ gia đình ông Nguyễn Văn C, hộ gia đình ông Nguyễn Văn L, hộ gia đình chị Lê Thị Kim T quản lý, sử dụng; Thửa đất số 43, Tờ bản đồ số 7 tại xã H hiện do hộ gia đình bà Đặng Thị Đ quản lý, sử dụng và Thửa đất số 3, 4 Tờ bản đồ số 12 tại xã H hiện do hộ gia đình anh Nguyễn Quốc V quản lý, sử dụng. Nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập những người đang quản lý, sử dụng đất này vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho những người đang quản lý, sử dụng đất này không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được đảm bảo theo quy định của pháp luật.
[8] Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng chưa có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện toàn bộ những phần đất mà UBND thành phố B đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H vào năm 2009 đã được đưa vào tập đoàn sản xuất từ những năm 1978-1979; thời điểm bà H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có sự tranh chấp, những người đang trực tiếp sử dụng đất đồng ý, trả lại đất cho bà H, nên việc bà H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là phù hợp; cho đến năm 2015 thì những hộ dân sử dụng đất mới có khiếu nại và họ cũng chỉ khiếu nại về việc tính công sức của đương sự khi sử dụng đất, yêu cầu bà H phải bồi thường thỏa đáng cho họ. Trong trường hợp này, đúng ra việc tranh chấp giữa các đương sự phải được xem xét, giải quyết bằng vụ án dân sự khác chứ không phải giải quyết bằng cách thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà H, từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, hủy các quyết định của UBND thành phố B, tỉnh Đồng Nai về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà H nêu trên là không đúng quy định của pháp luật.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 18/2021/HC-GĐT Ngày 06/7/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định GĐT: Số 18/2021/-GĐT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn