NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét việc tranh chấp giữa hộ gia đình ông K và hộ gia đình ông T3 đối với diện tích 4.855 m2 đất trồng cây lâu năm tại Thửa đất số 71 (nay là Thửa đất số 203), Tờ bản đồ số 16 thì thấy:
Diện tích 4.855 m2 đất nêu trên có nguồn gốc nằm trong diện tích 01 ha đất mà bố mẹ bà Nguyễn Thị Tuyết T4 (vợ ông T3) nhận chuyển nhượng của ông Phan Thanh D2 năm 1992. Năm 1999, Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông K bao gồm cả phần đất mà hộ gia đình ông T3 nhận chuyển nhượng của ông D2 năm 1992 và ông T3 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1993 là không đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, ngày 13/12/2010, Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 5227/QĐ-UBND thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ gia đình ông K và ngày 09/9/2011 ban hành Quyết định số 2864/QĐ[1]UBND công nhận quyền sử dụng đất cho ông T3, đồng thời cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE 194229 cho ông T3 đối với Thửa đất số 203, Tờ bản đồ số 16, Ấp 6, xã L, huyện C, diện tích 9.359 m2 (bao gồm 400 m2 đất ở tại nông thôn và 8.959 m2 đất trồng cây lâu năm) là đúng quy định của pháp luật.
[2] Xét việc tranh chấp giữa hộ gia đình ông K và gia đình bà L đối với diện tích 6.950 m2 đất trồng cây công nghiệp lâu năm thuộc Thửa đất số 76, Tờ bản đồ số 16 thì thấy:
[2.1] Nguồn gốc diện tích 6.950 m2 đất nêu trên là do ông Trần Xuân H1 và bà Hoàng Thị L (ông H1 và bà L chung sống như vợ chồng) nhận chuyển nhượng 6.080 m2 của ông Lê Doãn Q vào năm 1993. Năm 1994, ông H1 chết để lại thửa đất nêu trên cho bà L sử dụng. Năm 1995, bà Trần Thị D3 (con gái ông H1) khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu bà L trả lại vì thửa đất này là của ông H1.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 39/DSPT ngày 12/5/1995 của Tòa án nhân dân tỉnh Sông Bé (cũ) đã xét xử về việc đòi tài sản giữa bà Trần Thị D3 và bà Hoàng Thị L quyết định:
“Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị D3 và yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn K; sửa bản án sơ thẩm lại như sau:
– Bà Hoàng Thị L có trách nhiệm trả lại chiếc xe Honda cúp 50-81 biển số 37A-636HH cho bà Trần Thị D3 chiếc xe này hiện do Tòa án nhân dân huyện B quản lý.
– Bà Hoàng Thị L được quyền sở hữu nhà và quyền quản lý đất thổ cư cùng cây trái diện tích 6.080 m2 tại Ấp 1, xã L, huyện B sau khi đã trả nợ cho ông K và hoàn trả phần bà D3 được hưởng của ông H1.
– Bà Hoàng Thị L có trách nhiệm trả nợ cho ông K 2.212.500 đồng và 01 chỉ vàng 24k 95% và có trách nhiệm hoàn lại cho chị Trần Thị D3 số tiền 2.845.020 đồng là một phần nữa của ông H1 trong khối tài sản.
– Quản thủ nhà, đất đã giao cho bà L sở hữu, sử dụng để đảm bảo thi hành án.
– Bà Trần Thị D3 có trách nhiệm trả 1 chỉ vàng 24k 95% cho ông Trần Văn K”.
Ngày 20/11/1995, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã L, đại diện Đội Thi hành án huyện B lập “Biên bản giải quyết thi hành án” đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 39/DSPT nêu trên với nội dung:
“… ông K đồng ý sẽ lấy miếng đất thổ cư của bà L và sẽ khấu trừ tất cả các khoản nợ đã nêu trong bản án của bà L và bà D3… giao miếng đất thổ cư diện tích 6.080 m2 và một căn nhà tranh vách đất diện tích 40,79 m2 kể từ nay trở về sau thuộc quyền sở hữu của ông K và ông K có trách nhiệm làm thủ tục giấy tờ hợp pháp vì bà L đã cố tình vắng mặt nhiều lần cho nên phần bà L không có khiếu nại, thắc mắc gì cả.” Biên bản này có xác nhận của Ban Công an xã L.
[2.2] “Biên bản giải quyết việc thi hành án” nêu trên thể hiện bà D3 và bà L không có mặt khi giải quyết việc thi hành án. Như vậy, Đội Thi hành án huyện B giao diện tích đất và căn nhà cho ông K khi chưa tiến hành kê biên tài sản bị thi hành án; chưa tiến hành định giá tài sản kê biên và chưa tiến hành bán đấu giá tài sản theo quy định tại Điều 29, Điều 31, Điều 34 Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 17/4/1993 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là không đúng. Ngày 16/12/1999, Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 883223 cho hộ gia đình ông K được sử dụng diện tích 58.162 m2 , bao gồm diện tích 6.950 m2 đất trồng cây lâu năm thuộc Thửa đất số 76, Tờ bản đồ số 16 là không đúng, nên ngày 13/12/2010, Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 5227/QĐ-UBND thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ gia đình ông K là có căn cứ. Do ông K không giao nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Quyết định số 5227/QĐ-UBND nêu trên, nên ngày 19/10/2015, Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 2118/QĐ-UBND về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 883223 ngày 16/12/1999 của hộ gia đình ông K là đúng quy định của pháp luật.
[2.3] Tuy nhiên, ngày 14/9/2011, Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE 194210 cho bà Hoàng Thị L đối với Thửa đất số 76, Tờ bản đồ số 16 cũng là không đúng, bởi lẽ: tại Bản án dân sự phúc thẩm số 39/DSPT ngày 12/5/1995, Tòa án nhân dân tỉnh Sông Bé đã quyết định bà L được quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất có diện tích 6.080 m2 tại Ấp 1, xã L, huyện B sau khi đã trả nợ cho ông K và trả bà D3 phần tài sản mà bà U được hưởng của ông H1. Bà L chưa trả cho ông K và bà D3, tức là chưa thi hành xong các khoản nợ nêu trên. Hơn nữa, theo Bản án dân sự phúc thẩm số 39/DSPT nêu trên thì thửa đất mà bà L được giao quyền sử dụng đã bị “quản thủ” để đảm bảo thi hành án.
[2.4] Ngày 12/9/2014, ông K khởi kiện vụ án hành chính đề nghị hủy Quyết định số 5227/QĐ-UBND; Quyết định số 519/QĐ-UBND và Quyết định số 1608/QĐ-UBND nêu trên, nhưng ngày 26/01/2015, bà L lập hợp đồng chuyển nhượng Thửa đất số 76, Tờ bản đồ số 16 cho ông Hà Duy P và ngày 14/02/2015, Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông P là không đúng; vì tại thời điểm chuyển nhượng ông K đã khởi kiện vụ án hành chính và là người đang sử dụng thửa đất nêu trên, thửa đất đang có tranh chấp giữa ông K và bà L, nên không thể xác định ông P là người thứ ba ngay tình.
Do đó, Quyết định số 519/QĐ-UBND ngày 12/3/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C và Quyết định số 1608/QĐ-UBND ngày 24/7/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước là không đúng quy định của pháp luật. Ngày 14/02/2015, Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ở số BX 859739 cho ông Hà Duy P là không đúng.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm xác định phần diện tích đất tranh chấp giữa hộ gia đình ông K với hộ gia đình ông T3 và giữa hộ gia đình ông K với gia đình bà L đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là không đúng, bởi lẽ căn cứ Điều 25 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, thì Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 5227/QĐ-UBND ngày 13/12/2010 thu hồi giấy chứng nhận sử dụng đất đã cấp cho hộ gia đình ông K để cấp lại là đúng.
[4] Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K về việc hủy Quyết định số 519/QĐ-UBND ngày 12/3/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, Quyết định số 1608/QĐ-UBND ngày 24/7/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước là đúng; nhưng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K về việc hủy Quyết định số 5227/QĐ-UBND ngày 13/12/2010, Quyết định số 2864/QĐ-UBND ngày 09/9/2011, Quyết định số 2118/QĐ-UBND ngày 19/10/2015 của Ủy ban nhân dân huyện C, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE 194229 ngày 09/9/2011 của ông Trần Kim T3 và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 859739 ngày 14/02/2015 của ông Hà Duy P là không đúng.
[5] Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K về việc hủy Quyết định số 5227/QĐ-UBND, Quyết định số 2864/QĐ-UBND, Quyết định số 2118/QĐ-UBND nêu trên và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE 194229 ngày 09/9/2011 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Trần Kim T3 là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K về việc hủy Quyết định số 519/QĐ-UBND, Quyết định số 1608/QĐ-UBND nêu trên và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 859739 ngày 14/02/2015 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Hà Duy P là không đúng quy định của pháp luật. Khi Tòa án giải quyết lại phải hủy cả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà L ngày 14/9/2011
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn