Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án vì Tòa án 02 cấp chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn và xác nhận của các nhân chứng để chấp nhận yêu cầu khởi kiện là không đủ căn cứ

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án vì Tòa án 02 cấp chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn và xác nhận của các nhân chứng để chấp nhận yêu cầu khởi kiện là không đủ căn cứ

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Nguồn gốc đất của gia đình ông Trương S tọa lạc tại xã Đ, thị xã K (nay là thành phố K), tỉnh Kon Tum là do khai hoang từ năm 1975. Tháng 10/1993, ông Trương S cho vợ chồng em trai là ông Trương Công Đ, bà Nguyễn Thị T (ông Đ, bà T đã ly hôn năm 2009) một phần diện tích đất ở phần phía Bắc lô đất của ông S; ông Đ, bà T đã xây dựng nhà để ở.

Tháng 3/1994, UBND xã Đ ký Hợp đồng kinh tế với Chi cục quản lý đất đai tỉnh K để đo đạc đất, đồng thời làm thủ tục trình UBND thị xã K (nay là thành phố K) cấp GCNQSDĐ đại trà cho người dân trên địa bàn xã Đ.

Ngày 21/9/1994, ông Trương S được UBND thị xã K cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất 3.354m2 (đất ở và vườn), đất thuộc thửa số 266 tờ bản đồ số 02 xã Đ, thị xã K.

Ngày 21/9/1994, ông Trương Công Đ được UBND thị xã K cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất 1.782m2 (đất ở và vườn), đất thuộc thửa số 265 tờ bản đồ số 02 xã Đ, thị xã K. Năm 1995, ông Đ, bà T tiếp tục xây dựng ngôi nhà khác bên cạnh ngôi nhà đã xây năm 1993.

Tại đơn khởi kiện, bà T cho rằng ông S lấn chiếm của Bà diện tích đất 756m2 theo GCNQSDĐ cấp ngày 21/9/1994 cho ông Đ. Quá trình giải quyết vụ án, bà T thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ông S trả lại diện tích đất 275,8m2 nằm trong GCNQSDĐ cấp cho ông Đ (bà T) ngày 21/9/1994.

Tại Biên bản xác minh ngày 14.3.2023, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố K lại xác định: hiện nay Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố K không có lưu trữ tài liệu hồ sơ địa chính và bản đồ địa chính để phục vụ cho việc cấp GCNQSDĐ hộ ông S, hộ ông Đ, do vậy không có cơ sở xác định ranh giới, mốc giới của diện tích đất được cấp theo 02 GCNQSDĐ để lồng ghép lên sơ đồ hiện trạng hiện nay theo sơ đồ hiện trạng tại Biên bản xem xét thẩm định ngày 29/4/2022 (BL 251).

Tại Biên bản làm việc ngày 09/01/2024, UBND xã Đ xác định: căn cứ vào 02 GCNQSDĐ của hai hộ ông S, ông Đ thì không xác định được vị trí, tứ cận đất theo GCNQSDĐ so với diện tích đất thực tế các bên đang sử dụng (BL 405).

Năm 2012, bà T kiện đòi diện tích theo GCNQSDĐ đã cấp cho ông Đ (bà T) ngày 21/9/1994. Trên cơ sở kết quả đo đạc ngày 07/3/2012 và được các bên đương sự thống nhất, Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum đã ra Quyết định số 43/2012/QĐST-DS ngày 31/8/2012 công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự, theo đó ông S trả lại cho bà T diện tích đất 305,5m2 ở phần sau phía Tây lô đất của bà T; cụ thể: phía Tây giáp đất ông S đang sử dụng, rộng: 8m; phía Nam giáp đất ông S đang sử dụng, dài: 34,4m. Như vậy ranh giới phần sau thửa đất giữa hai bên đã được các bên thừa nhận và được Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum công nhận theo Quyết định số 43 (đang có hiệu lực) nêu trên. Ngày 19/12/2013, Chi cục Thi hành án thành phố Kon Tum đã tiến hành cắm mốc phân định ranh giới diện tích đất 305,5m2 và giao cho bà T.

Theo sơ đồ hiện trạng lô đất tranh chấp đo vẽ ngày 29/4/2022, diện tích đất hiện bà T đang quản lý là 692,6m2, thừa so với diện tích trong GCNQSDĐ là: 4,6m2 (chưa bao gồm diện tích đất tranh chấp 275,8m2). Diện tích đất hiện ông S đang quản lý là 5.674,4m2 (đã bao gồm diện tích đất tranh chấp 275,8m2); thừa so với diện tích trong GCNQSDĐ là 1.513,7m2.

Mặc dù diện tích đất đang sử dụng của ông S thừa so với diện tích được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án bà T thừa nhận đất của vợ chồng bà có nguồn gốc từ ông S cho; diện tích đất tranh chấp bà T cũng không quản lý, sử dụng; đồng thời, diện tích đất đang sử dụng của bà T thừa so với diện tích được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại Biên bản đối chất ngày 15/12/2023, ông S, bà T đều thừa nhận: tháng 10/1993, ông Trương S cho vợ chồng em trai là ông Đ, bà T một phần diện tích đất ở phần phía Bắc lô đất của ông S khoảng 30m mặt đường và chiều dài hết lô đất (BL – 404). Năm 2007, bà T và ông Đ chuyển nhượng một phần diện tích đất cho 02 hộ bà Nguyễn Thị B1 và ông Lê Việt C (729m2 + 365m2), chuyển nhượng từ phía Bắc (giáp đất ông T11) trở vào tổng cộng chiều dài mặt đường là 18m (bà B1 12m, ông C 6m mặt đường). Như vậy, chiều ngang mặt đường lô đất của bà T còn lại khoảng 12m. Qua sơ đồ hiện trạng lô đất tranh chấp thể hiện chiều ngang mặt đường phần diện tích đất bà T đang quản lý, sử dụng là 12,1m (BL – 101).

Ngoài ra, kèm với Công văn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Kon Tum có gửi kèm Đơn xin xác nhận của bà Nguyễn Thị Bích T3, bà Nguyễn Thị K thể hiện nội dung họ không biết việc vợ chồng ông S cho đất vợ chồng bà T là từ vị trí cây dừa.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của bà T, căn cứ vào xác nhận của các nhân chứng (theo yêu cầu triệu tập của bà T) để từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T và buộc ông S trả lại cho bà T diện tích đất 275,8m2 là chưa đủ căn cứ vững chắc.

Khi giải quyết lại vụ án, Toà án cần căn cứ vào ranh giới đã được Toà án nhân dân thành phố Kon Tum công nhận theo Quyết định số 43 nêu trên (đối với phần đất phía sau) và sự thừa nhận của các bên đương sự về phần đất được cho, thực tế quản lý, sử dụng đất tranh chấp từ trước cho đến nay để giải quyết vụ án.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

[Nguồn: Quyết định GĐT số 66/2024/DS-GĐT ngày 04/09/2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số: 66/2024/DS-GĐT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan