NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của Ủy ban nhân dân thành phố B trong thời hạn luật định, hợp lệ, đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố B có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Nên tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt người bị kiện theo quy định tại khoản 4 Điều 225 Luật tố tụng hành chính.
[2] Ông Nguyễn Kim L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Văn bản số 5699/UBND-VP ngày 03/6/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố B về việc “Giải quyết hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của ông Nguyễn Kim L; Văn bản số 541/UBND-VP ngày 10/6/2021 của Ủy ban nhân dân phường K; Văn bản xác nhận ngày 07/6/2021 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B. Yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố B lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Kim L. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định về thời hiệu khởi kiện, đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết vụ án là đúng quy định tại các Điều 30, 32, 116 của Luật Tố tụng hành chính.
[3] Xét tính hợp pháp của Quyết định hành chính bị khiếu kiện:
[3.1] Ông Nguyễn Kim L khai nguồn gốc đất là của ông Đoàn Văn S khai phá sử dụng nuôi trồng thủy sản từ năm 1993. Đến năm 1999, ông Đoàn Văn S cho con gái là bà Đoàn Thị V sử dụng nuôi trồng thủy sản. Năm 2001, bà Đoàn Thị V chuyển nhượng cho ông Võ Đoàn K sử dụng nuôi trồng thủy sản. Năm 2002, ông Võ Đoàn K sang nhượng lại cho ông Nguyễn Kim L, bà Vũ Thị T sử dụng để nuôi trông thủy sản, hai bên có lập giấy viết tay vào ngày 01/10/2002 với diện tích đất 15.287,4m2 thuộc thửa đất số 12, tờ bản đồ số 34 tại phường K, thành phố B.
Căn cứ Sổ mục kê năm 1998 do xã L lập thì diện tích đất ông Nguyễn Kim L yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa số 6, tờ bản đồ 39 diện tích 440.800m2 , mục đích sử dụng: đất rừng phòng hộ tựu nhiên (R.Tn.P); cột ghi chú thể hiện “UB xã”. Tại Sổ mục kê năm 2004 do phường K lập thì diện tích đất ông Nguyễn Kim L yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa số 12, tờ bản đồ 34 có ghi mục đích sử dụng “R.Tn.S” có nghĩa là rừng phòng hộ tự nhiên, diện tích 248.903m2 nhưng không ghi tên người sử dụng. Cuối trang ghi: “Đối tượng sử dụng khác”.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất vào năm 2001, gia đình ông Nguyễn Kim L sử dụng ổn dịnh, liên tục để nuôi trồng thủy sản đến nay. Ngày 13/10/2020 ông Nguyễn Kim L nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 15.287,4m2 thuộc một phần thửa đất số 12, tờ bản đồ số 34 tọa lạc phường K tại Ủy ban Nhân dân thành phố B.
[3.2] Ngày 01/12/2020 Ủy ban Nhân dân phường K đã thẩm tra và xác nhận diện tích đất trên với nội dung: “nguồn gốc đất do bà Đoàn Thị V sử dụng từ năm 1999 vào mục đích nuôi trồng thủy sản. Năm 2001 bà Đoàn Thị V sang nhượng cho ông Võ Đoàn K để tiếp tục nuôi trồng thủy sản. Năm 2002 ông Võ Đoàn K sang nhượng cho ông Nguyễn Kim L và bà Vũ Thị T (bằng giấy tay) sử dụng liên tục đến nay để nuôi trồng thủy sản và không tranh chấp với ai”.
Đến ngày 05/01/2021, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B cũng đã xác nhận hồ sơ của ông Nguyễn Kim L với nội dung “Đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận đối với diện tích 14.975,4m2 thuộc một phần thửa đất số 12, tờ bản đồ số 34, phường K theo khoản 2 điều 101, điều 129 Luật Đất đai 2013; điểm a, khoản 5 điều 20 nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của chính phủ”. Ngày 12/01/2021, ông Nguyễn Kim L đã thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước liên quan đến diện tích đất đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Sau đó Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B chuyển hồ sơ đăng ký, cấp Giấy chứng nhận của ông Nguyễn Kim L, bà Vũ Thị T đến phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố B để trình Ủy ban nhân dân thành phố B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Như vậy căn cứ xác định ông Nguyễn Kim L nộp hồ sơ, đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại các Điều 18, 20, 70 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật đất đai và Điều 8 của Thông tư số 24/TT[1]BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
[3.3] Đồng thời tại báo cáo số 225/BC-UBND ngày 02/06/2021 Ủy ban nhân dân phường K cũng đã xác định: “Ngày 29/5/2021 Ủy ban nhân dân phường xác minh ông Võ Đoàn K (chủ đất cũ) có thửa đất số 12 tờ bản đồ số 34 với diện tích 76.653,4m2 ông Võ Đoàn K được Ủy ban nhân dân thị xã Bà Rịa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG912654 cấp ngày 21/12/2006 có nguồn gốc là đất của ông Võ Đoàn K nhận chuyển nhượng của bà Đoàn Thị V từ năm 2001. Như vậy thửa đất số 12/ tờ bản đồ số 34 của ông Nguyễn Kim L – bà Vũ Thị T đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thửa đất số 12 tờ bản đồ số 34 của ông Võ Đoàn K đã được cấp giấy có chung nguồn gốc là ông Võ Đoàn K nhận chuyển nhượng của bà Đoàn Thị V từ năm 2001”
Xét thấy ông Nguyễn Kim L có quá trình sử dụng đất ổn định liên tục, không phát sinh tranh chấp và không bị xử phạt vi phạm hành chính, đủ điều kiện để được xem xét cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân thành phố B cho rằng ông Nguyễn Kim L không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất theo Quyết định số 1078/QĐ-UBND ngày 04/5/2020 của Việc Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Nhưng theo khoản 2 Điều 49 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Trường hợp quy hoạch sử dụng đất đã được công bố mà chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng và được thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, đối chiếu với quy định trên, thì ông Nguyễn Kim L được thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định tại các Điều 101, 166 của Luật đất đai và khoản 5 Điều 20 và điểm h khoản 2 Điều 21 của Nghị định số 43/NĐ-CP của Chính phủ chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai năm 2013.
Xét Văn bản số 5699/UBND-VP ngày 03/6/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành về việc “Giải quyết trả hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của ông Nguyễn Kim L và xác định hồ sơ ông Nguyễn Kim L, bà Vũ Thị T không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chưa đúng quy định của pháp luật. Căn cứ Văn bản 5699/UBND-VP, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B có xác nhận ngày 07/6/2021 “hủy nội dung xác nhận ngày 05/01/2021 tại Đơn đăng ký, cấp giấy chứng nhận” của ông Nguyễn Kim L bà Vũ Thị T; Đồng thời Ủy ban nhân dân phương Kim Dinh ban hành Văn bản số 541/UBND-VP ngày 10/6/2021 “Đính chính nội dung xác nhận về nguồn gốc sử dụng đất đối với diện tích 15.287,4m2 thuộc thửa đất số 12 tờ bản đồ số 34 do ông Nguyễn Kim L – bà Vũ Thị T đăng ký cấp giấy có nguồn gốc đất rừng phòng hộ tư nhiên do Nhà nước quản lý” là chưa phù hợp với quá trình thực tế sử dụng đất, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông Nguyễn Kim L.
Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Kim L, hủy Văn bản số 5699/UBND-VP ngày 03/6/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố B về việc “Giải quyết hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của ông Nguyễn Kim L; hủy xác nhận ngày 07/6/2021 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B về việc: “hủy nội dung xác nhận ngày 05/01/2021 tại đơn đăng ký, cấp giấy chứng nhận” quyền sử dụng đất đối với diện tích 15.287,4m2 thuộc một phần thửa đất số 12 tờ bản đồ số 34, phường K của ông Nguyễn Kim L bà Vũ Thị T; hủy Văn bản số 541/UBND-VP ngày 10/6/2021 của Ủy ban nhân dân phường K, thành phố B về việc: “Đính chính nội dung xác nhận về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất đối với diện tích 15.287,4m2 thuộc thửa đất số 12 tờ bản đồ số 34 do ông Nguyễn Kim L – bà Vũ Thị T đăng ký cấp giấy” là có căn cứ.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Ủy ban nhân dân thành phố B, cho rằng diện tích đất ông Nguyễn Kim L yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc đất rừng phòng hộ tự nhiên do Ủy ban nhân dân xã quản lý. Tuy nhiên tại tờ trình số: 131/TTr-TNMT Ngày 01/02/2021 Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố B xác định thửa đất số 12 tờ bản đồ số 34 phường K không nằm trong danh sách quỹ đất công giao Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý theo Quyết định số 3693/QĐ-UBND ngày 31/12/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và không nằm trong quỹ đất công do Nhà nước quản lý từ trước đến nay. Đồng thời tại biên bản xác minh ngày 02/12/2021 cán bộ địa chính phường K cung cấp thông tin: “Theo hồ sơ địa chính năm 2004 do phường K quản lý thì diện tích đất của ông Nguyễn Kim L là đất rừng sản xuất tự nhiên, thuộc một phần thửa số 6 tờ bản đồ số 34 không có người đăng ký (Bút lục số 74). Do đó, không chấp nhận ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân thành phố B, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là có căn cứ.
[5] Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử có quyền quyết định buộc cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Do đó điều chỉnh lại cho đúng: Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B thực hiện nhiệm vụ, công vụ về việc xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 15.287,4m2 thuộc thửa đất số 12 tờ bản đồ số 34 cho ông Nguyễn Kim L – bà Vũ Thị T theo quy định của pháp luật.
[6] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên Ủy ban nhân dân thành phố B phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 34 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
[7] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về án phí hành chính sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[Nguồn: Bản án số 437/2023/HC-PT ngày 19/6/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 437/2023/HC-PT
———–
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn