Feel free to go with the truth

Trang chủ / Nghiên cứu học tập / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Giám đốc thẩm hủy án vì Tòa chỉ căn cứ duy nhất vào Giấy chứng nhận QSDĐ đã buộc bị đơn trả lại đất cho nguyên đơn là chưa đủ cơ sở vững chắc

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Giám đốc thẩm hủy án vì Tòa chỉ căn cứ duy nhất vào Giấy chứng nhận QSDĐ đã buộc bị đơn trả lại đất cho nguyên đơn là chưa đủ cơ sở vững chắc

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Các đương sự đều thống nhất phần đất các bên tranh chấp qua đo đạc thực tế có diện tích là 362,3m2 thuộc thửa đất số 721, tờ bản đồ số 05, (trước đây là một phần thửa số 989 và số 990, tờ bản đồ số 01) tọa lạc tại xã QT, huyện CT, tỉnh Bến Tre do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho hộ bà Nguyễn Thị Phương T1 ngày 28/9/2020. Phần đất hiện nay do bà K và các con bà K là Nguyễn Thanh P3 và Nguyễn Thanh V đang quản lý sử dụng và xây cất nhà ở ổn định trên đất.

[2] Xét về nguồn gốc đất: theo hồ sơ trích sao sổ mục kê đất năm 1990 của Ủy ban nhân dân xã QT thể hiện: thửa đất số 989, số 990 tờ bản đồ số 01, có tổng diện tích là 1.375m2 người đứng tên là bà Nguyễn Thị T1, sau đó có chỉnh sửa gạch bỏ chữ “T1” và ghi kế bên là“Phương T1”, đồng thời sổ mục kê cũng thể hiện ông Nguyễn Văn T được ghi nhận đối với thửa số 983, 984, nhưng bị gạch bỏ và thay bằng ông Nguyễn Thanh G đối với thửa số 983 và bà Phạm Thị R là thửa số 984 (BL 188). Tòa án hai cấp căn cứ vào sổ mục kê để xác định diện tích đất tranh chấp là của ông T quản lý từ năm 1980, đến năm 1990 cho bà T1 kê khai đứng tên sổ mục kê đối với thửa đất là chưa đủ cơ sở vững chắc. Ngoài ra, tháng 6/2020 bà T1 làm đơn xin đo đạc xác định lại diện tích đất do hồ sơ địa chính đã đo nhập thửa đất của bà T1 với phần đất của ông Nguyễn Văn B (chồng bà K), nên bà T1 được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 28/9/2020 trong đó có phần đất hiện bà T1 đang tranh chấp với bà K nhưng chưa được Tòa án hai cấp làm rõ.

[3] Xét về quá trình quản lý sử dụng đất, tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện CT, tỉnh Bến Tre thể hiện: Trên diện tích đất tranh chấp có 01 căn nhà chính, xây tường, lợp tôn, nền gạch, phía trước nhà là mái che, song song là căn nhà bếp, có tường rào xây giáp phần đất của bà T1… do gia đình bà K xây dựng từ năm 1999 và sử dụng đến nay, không ai có ý kiến phản đối hoặc tranh chấp với bà K.

[3.1] Tại Giấy xác nhận ngày 21/10/2020, ông Nguyễn Văn N (con của ông T, anh ruột của bà T1) xác nhận như sau: “Tôi là con của ông Nguyễn Văn T nay tôi xin xác nhận là ba tôi là ông Nguyễn Văn T có cho anh Hai B là ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1949, phần đất tọa lạc tại ấp Phú Thuận xã QT để cất nhà ở và sinh sống từ những năm 1999 đến nay, phần đất này giáp ranh đất ông Bùi Quang D. Vì: Giai đoạn địa chính đo đạc (đội 301) lại thì chính tôi là người trực tiếp đã chỉ ranh giới phần đất của ba tôi và có trừ lại phần đất mà anh Hai B cất nhà ở nên rạch ròi hết” (BL 76). Đồng thời, bà M (con của ông T, chị ruột của bà T1) cũng xác nhận: Tôi là con của ông Nguyễn Văn T, nay tôi xin xác nhận là ba tôi là ông Nguyễn Văn T có cho anh Hai B là ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1949, phần đất tọa lạc tại ấp Phú Thuận xã QT đây là phần đất giáp đất ông Bùi Quang D để cất nhà và sinh sống từ những năm 1999 đến nay là đúng sự thật”(BL 78).

[3.2.] Tại bản tự khai ngày 28/7/2023 của ông N và bà M là anh, chị ruột của bà T1 đều khai thống nhất nội dung như sau: Trước đây, vào năm 1999 do ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1949 (chết năm 2017) đã đồng ý lấy đất của mình đang sử dụng hợp pháp chia cho bà con trong họ tộc nên cha tôi là ông Nguyễn Văn T đã cùng với các chi trong họ tộc đồng ý chia cho ông B một phần diện tích đất để xây dựng nhà ở. Sau khi được cho đất thì ông B và gia đình đã xây dựng nhà và ở ổn định trên đất từ đó cho đến nay.

Vào năm 2006, tôi có chứng kiến cha tôi và các chi còn lại cắm cọc, cắm ranh để xác định ranh giới đối với phần đất và nhà do gia đình ông B sử dụng. Ngày 05/03/2019, tôi có cùng với các anh chị em làm tờ thuận phân, mục đích của việc làm tờ thuận phân là không cho bà T1 được quyền bán hoặc chuyển nhượng đối với phần đất của ông bà để lại. …Còn phần đất hiện nay đang tranh chấp có diện tích 362,3m2 thuc thửa đất: 721, tờ bản đồ số 5 (thuộc một phần thửa đất cũ: 989 và 990, tờ bản đồ số 01), tọa lạc tại ấp PT, xã QT, huyện CT, tỉnh Bến Tre là của gia đình ông Nguyễn Văn B và bà Trần Thị K quản lý, sử dụng và toàn quyền quyết định”. Và tại Bản tự khai ngày 28/7/2023 của ông Nguyễn Mỹ L (cậu ruột của ông T), cũng xác định: “Trước đây, vào năm 1999 do ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1949 (chết năm 2017) đã đồng ý lấy đất của mình đang sử dụng hợp pháp chia cho bà con trong họ tộc nên tôi và ông Nguyễn Văn T đã cùng với các chi trong họ tộc đồng ý chia cho ông B một phần diện tích đất để xây dựng nhà ở. Sau khi được cho đất thì ông B và gia đình đã xây dựng nhà và ở ổn định trên đất từ đó cho đến nay”.

[4] Như vậy, về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất tuy bà T1 là người đứng tên diện tích 362,3m2, thửa đất  721, nhưng thực tế diện tích đất này gia đình bà K, ông B là người quản lý sử dụng đất ổn định từ năm 1999 đến nay và tại phần nhận định của bản án phúc thẩm cũng xác định bà K, ông B đã ở ổn định, lâu dài trên đất thời gian trên 30 năm (trước thời điểm bà T1 được cấp giấy chứng nhận lần đầu năm 2004). Các nội dung trên phù hợp với lời khai của bà M, ông N (anh, chị em ruột của bà T1) và ông Nguyễn Mỹ L là cậu ruột ông T (ông T là cha ruột bà T1), tất cả đều xác nhận phần đất bà T1 tranh chấp với bà K đã được ông T và các chi trong họ tộc đồng ý chia cho ông B (cha bà K) phần đất làm nhà ở từ năm 1999 đến nay. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chỉ căn cứ duy nhất vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã buộc bà K trả lại cho bà T1 diện tích 362,3m2 đất trên là chưa đủ cơ sở vững chắc. Trong trường hợp nếu có căn cứ xác định diện tích đất tranh chấp là của bà T1, nhưng gia đình bà K có quá trình quản lý sử dụng đất lâu dài cấp phúc thẩm cũng cần phải xem xét công sức giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất của gia đình bà K, đồng thời cũng xác minh làm rõ nhu cầu về chỗ ở của gia đình bà K để giải quyết cho thỏa đáng.

[5] Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T1, buộc bà K trả cho bà T1 diện tích đất 362,3m2 là chưa phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

[Nguồn: Quyết định GĐT số 03/2025/DS-GĐT ngày 15/01/2025 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định GĐT số: 03/2025/DS-GĐT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường Bình Lợi Trung, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Chung cư Báo Công an nhân dân, 23 đường Nghiêm Xuân Yêm, xã Đại Thanh, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

1421 Nguyễn Tất Thành, phường Quỳnh Mai, Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Trường Vinh Tân, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, phường Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan