Feel free to go with the truth

Trang chủ / BIỂU MẪU VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất nhờ đứng tên và không tính công sức đối với tài sản tăng thêm tự nhiên

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất nhờ đứng tên và không tính công sức đối với tài sản tăng thêm tự nhiên

  1. Chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất nhờ đứng tên và không tính công sức đối với tài sản tăng thêm tự nhiên

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và các quy định của pháp luật; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Theo đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo Nguyên đơn cho rằng nhà và đất tại thôn L4, xã V, thành phố N1, tỉnh Khánh Hòa (nay là 66 Đường G, L4) là do nguyên đơn gửi tiền về cho bị đơn mua và thuê thợ làm nhà giúp để sau này về ở tại Việt Nam; giữa nguyên đơn và bị đơn quan hệ là chú cháu.

[1.1] Chứng cứ của nguyên đơn đưa ra là các chứng từ giao dịch về chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam cho người nhận là vợ chồng ông Phạm Văn H1 và bà Nguyễn Thị D. Ngoài ra nguyên đơn còn cung cấp bản vi bằng số 51/2020/VB- TPLNT ngày 20/3/2020 do Văn phòng thừa phát lại Thành phố N1 lập theo yêu cầu của bà Phan Thị B2, địa chỉ: Thôn L, V1, Thành phố N1, Khánh Hòa, thể hiện 03 sự kiện: (i) Email có tiêu đề “Goi gia dinh xem co gi gop y” được gửi từ địa chỉ: thanhtrungvn17gmail.com, vào thời gian Thu,2 May, 2013 22:30:12; địa chỉ nhận email là: tntran689 hotmail.com, trong đó có đính kèm 01 tệp tin có  tên: Trung nha Hung.dwg. Mở tệp tin ghi nhận được hình ảnh thiết kế nhà. (ii) Đoạn ghi âm được trích xuất từ tệp ghi âm trong điện thoại hiệu Nokia do bà Phạm Thị B2 cung cấp thể hiện nội dung trao đổi về việc cho ở nhà và ký giấy. (iii) Đoạn dữ liệu ghi hình người đàn ông tóc trắng, áo vàng đang giao tiếp với một người đàn ông khác vào thời điểm trưa ngày 22/02/2015. Cùng với các chứng cứ nêu trên Nguyên đơn cung cấp 01 “Giấy xác nhận” không ghi ngày tháng năm (Bl 167) và 01 bì thư thể hiện người gửi là Nguyễn Thị D người nhận là Trần Thị Mỹ T2 (con gái ông N) có địa chỉ bên nước ngoài và bì thư gửi từ bưu cục Khánh Hòa ngày 09/1/2016 ( BL 168).

[1.2] Về phía bị đơn ông Phạm Văn H1 và bà Nguyễn Thị D thừa nhận có việc ông Trần Văn N, bà Võ Thị H1 gửi tiền về Việt Nam cho ông bà qua hệ thống ngân hàng khoảng hơn 300.000.000 đồng, nhưng đó là tiền ông N, bà H1 cho ông bà (vì có quan hệ họ hàng) chứ không phải nhờ ông bà mua đất, xây nhà. Thửa đất tranh chấp ông bà mua của ông Lê Q, bà Nguyễn Thị B2 với số tiền 595.000.000 đồng. Sau đó, ông bà xây dựng nhà trên đất theo hiện trạng như hiện nay với số tiền khoảng trên 800.000.000 đồng. Nếu ông N và bà H1 yêu cầu ông bà trả lại số tiền mà ông N, bà H1 gửi về cho ông bà thì ông bà đồng ý trả lại.

[2] Xét kháng cáo của ông Phạm Văn H1 và bà Nguyễn Thị D, Hội đồng xét xử xét thấy:

Đây là vụ án giải quyết về quan hệ đòi lại tài sản, Bản án sơ thẩm đã thu thập chứng cứ đã đầy đủ; tuy nhiên để xác định giá trị chứng minh của các chứng cứ thì cấp sơ thẩm đã làm chưa đầy đủ. Tại cấp phúc thẩm đã khắc phục được vấn đề trên cụ thể:

Chứng cứ là :  Giấy ác nhận không đề ngày tháng do nguyên đơn cung cấp có nội dung: “Tôi tên Trần Văn N, Võ Thị H1 có về Việt Nam mua căn nhà nhờ cháu tôi đứng tên là cháu Phạm Văn H1 và Nguyễn Thị D đứng tên dùm để hàng năm tôi đi du lịch về Việt Nam tôi ở là đúng sự thật. Người  xác nhận: Nguyễn Văn  Quang, số CMND 22523233, Lưu Ngọc Vương, số CMND 365837587, chữ  ký và chữ  viết Nguyễn Văn Quang, Lưu Ngọc Vương. Người đứng tên nhà: Phạm Văn H1, SĐT 01683910827, Nguyễn Thị D, SĐT 01667999837, chữ ký và chữ viết Phạm Văn H1, Nguyễn Thị D.”. Ông H1 cùng người viết là Nguyễn Thanh Tr (con gái ông H1 bà D), không thừa nhận ký và viết trong Giấy xác nhận nêu trên.

Xét thấy “Giấy xác nhận” do nguyên đơn cung cấp đây là chứng cứ vật chất quan trọng chứng minh được có hay không có việc ông N gửi tiền về Việt Nam nhờ ông H1 bà D mua đất đứng tên và làm nhà giúp hay không? Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự thực hiện việc giám định chữ viết và chữ ký là thiếu sót. Tại cấp phúc thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn Tòa án đã thực hiện việc giám định chữ viết và chữ ký trong giấy xác nhận theo đúng trình tự tố tụng.

Tại bản kết luận giám định số 106/LK–CO9C (Đ2) ngày 25 tháng 02 năm 2022 của Phân viện khoa học hình sự tại thành Phố Đà Nẵng đã kết luận: Chữ viết trong giấy xác nhận nêu trên là của bà Nguyên Thanh Trúc và chữ ký trong giấy xác nhận là của ông Phạm Văn H1.

Như vậy chứng cứ là Giấy xác nhận nêu trên là phù hợp với lời trình bày của ông N, phù hợp với việc bị đơn thừa nhận c việc ông H1 gửi tiền về cho bị đơn, phù hợp với bản vi bằng số 51/2020/VB-TPLNT ngày 20/3/2020 do Văn phòng thừa phát lại Thành phố N1 lập theo yêu cầu của bà Phan Thị B2, địa chỉ: Thôn Lương Sơn 3, V1, Thành phố N1, Khánh Hòa, thể hiện 03 sự kiện như đã viện dẫn nêu trên, phù hợp với lời khai của người làm chứng. Từ đó có đủ căn cứ vững chắc để khẳng định. Toàn bộ tài sản là nhà và đất tại thôn L4, V1, Thành phố N1, Khánh Hòa (nay là 66 Đường G, thôn L4, V1) là của ông Trần Văn N (Tran Van N) và bà Võ Thị H1 (Vo Thi H), và ông N bà H có gửi tiền về nhờ Phạm Văn H1 mua đất đứng tên và làm nhà giúp. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ đúng pháp luật; do vậy kháng cáo của bị đơn không có căn cứ được chấp nhận.

[3] Xét kháng cáo của ông Trần Văn N về số tiền công sức mà Bản án sơ thẩm buộc ông phải thanh toán cho ông Phạm Văn H1; Hội đồng xét xử xét thấy; Bản án sơ thẩm nhận định và cho rằng: “ông Phạm Văn H1 và bà Nguyễn Thị D có công sức trong việc bảo quản gìn gi và quản lý , trông coi việc ây dựng nhà nên ông Trần Văn N và bà Võ Thị H phải thanh toán cho ông Phạm Văn H1 bà Nguyễn Thị D 20% giá trị nhà đất tranh chấp theo giá thị trường..:” Việc nhận định và quyết định cho ông H1 bà D được hưởng 20% trị gía tài sản của ông N bà H như Bản án sơ thẩm là không có căn cứ và không công bằng, không đúng pháp luật bởi các lẽ sau.

[3.1] Tài sản là thuộc quyền sở hữu của ông N bà H là người bỏ  tiền ra mua đất và bỏ tiền ra làm nhà. Sau khi làm nhà xong phía ông N yêu cầu giao nhà thì ông H1 không giao nhà mà tiếp tục sử dụng nhà kể từ thời điểm năm 2013 đến nay là 09 năm nên gía trị tài sản là nhà không tăng lên mà ngược lại còn giảm đi do ông H1 sử dụng và khai thác công năng của nhà, trong trường hợp này ông H1 đã có lợi trong việc sử dụng tài sản của ông N. Và ông N cũng không yêu cầu ông H1 bồi thường những thiệt hại do quá trình sử dụng nhà của ông N.

[3.2] Theo lời khai của ông H1 thì khi mua đất là 595.000.000 đồng (BL 450, 439). Khi định giá đất theo giá thị trường là 864.894.375 đồng tức là tăng lên 269.894.375 đồng đây là việc tăng giá tự nhiên của thị trường bất động sản chứ ông H1 hoàn toàn không có công sức bồi đắp tôn tạo gì để làm tăng giá trị của đất vì đất khi mua đã là đất ở nông thôn. Bản án sơ thẩm buộc ông N phải thanh toán cho ông H1 là 332.310.000 đồng (cao hơn số tiền đất được tăng giá trị) là không có căn cứ pháp luật. Quan hệ giữa ông H1 và ông N không phải chia thừa kế hoặc chia tài sản chung theo các nội dung của  án lệ.

Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay đại diện cho ông N cũng thừa nhận ông H1 có công sức trong thời gian thuê thợ làm nhà cho ông N, trông coi thợ trong khoảng thời gian 06 tháng thi công và ông N nhất trí thanh toán cho ông H1 khoản tiền phù hợp và đề nghị Hội đồng xem xét quyết định. Thấy rằng cần buộc ông N phải thanh toán công sức cho ông H1 như nhận định nêu trên một khoản tiền 150.000.000 đồng là phù hợp.

[4] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát; Hội đồng xét xử xét thấy: Do tại cấp phúc thẩm đã khắc phục những thiếu sót trong việc thu thập đánh giá chứng cứ của cấp sơ thẩm, nên không cần thiết phải hủy án sơ thẩm mà chỉ cần sửa Bản án theo đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay. Tuy nhiên thấy rằng; trong vụ án này yêu cầu của nguyên đơn là buộc bị đơn trả lại toàn bộ tài sản là nhà đất cho nguyên đơn. Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải trả lại nhà đất cho nguyên đơn là có căn cứ, nhưng trong phần quyết định của Bản án lại tuyên “Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn” là không đúng, trong trường hợp này phải tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, kháng nghị của Viện kiểm sát được chấp nhận một phần.

[ 4 ] Bị đơn phải nộp án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

[Nguồn: Bản án PT số 99/2022/DS-PT Ngày 14/4/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:

📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn

♥️ Fanpage and Group:

https://www.facebook.com/fdvnlawfirm

https://www.facebook.com/lawyersindanang

https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat

https://www.facebook.com/groups/saymengheluat

https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam

🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Xem file đính kèm toàn văn Bản án: Bản án PT số 99/2022/DS-PT

 

Bài viết liên quan