NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét thẩm tra, kết quả hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Tại phiên toà phúc thẩm những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn kháng cáo gồm Lê Thị G, Lê Văn T và Đào Thị Phụng có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo luật định.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh rút toàn bộ Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-DS ngày 01/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 298 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu.
Xét kháng cáo của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
[2] Vào ngày 13/5/2020 Toà án nhân dân thị xã G, tỉnh Bạc Liêu thụ lý vụ án tranh chấp hụi giữ nguyên đơn bà Lý Thị Hương và bị đơn ông Lê Văn B, bà Phan Thị H, tại Bản án sơ thẩm số 01/2021/DS-ST ngày 05 tháng 01 năm 2021 của Toà án nhân dân thị xã G, Bản án phúc thẩm số 46/2021/DS-PT ngày 28 tháng 4 năm 2021 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu tuyên buộc ông Lê Văn B, bà Phan Thị H có trách nhiệm liên đới trả cho bà Lý Thị H tiền nợ hụi 1.834.000.000 đồng. Ngày 01/10/2021 bà Lý Thị H có đơn gửi Chi cục Thi hành án dân sự thịa xã Giá Rai đề nghị xác minh, kê biên tài sản của ông Lê Văn B, bà Phan Thị H vì có hành vi tẩu tán tài sản, ngày 28/02/2022 Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G có văn bản số 112/CV-CCTHA trả lời bà Lý Thị H với nội dung: Ngày 30/7/2020, Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G giao quyền sử dụng đất cho bà Huỳnh Thị Thuỷ (theo Quyết định Công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 20/2019/QĐST-DS ngày 12/7/2019 của Toà án nhân dân thị xã G) diện tích 9.405,0m2, tại thửa đất số 460, tờ bản đồ số 05, đất toạ lạc ấp 5, xã P, thị xã G, đến ngày 17/9/2020 bà Huỳnh Thị Thuỷ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Ngày 29/9/2020 chuyển nhượng cho ông Lê Văn T diện tích 6.700m2 thửa số 865 tờ bản đồ số 5, tọa lạc ấp 4, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu, ngày 14/10/2020 ông Lê Văn T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Ngày 21/10/2020 chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Đỗ Thị P diện tích 11.803,5m2 thửa số 281 tờ bản đồ số 5, tọa lạc ấp 4, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu, ngày 03 tháng 11 năm 2020 bà Phụng được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 806101; Ngày 11/11/2020 chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị G diện tích 13.605m2 thửa số 840 tờ bản đồ số 5, tọa lạc ấp 4, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu, ngày 23 tháng 11 năm 2020 bà Lê Thi G được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 435296; Ngày 11/12/2020 tiếp tục chuyển nhượng cho bà Lê Thi G diện tích 6.960,9m2 thửa số 335 tờ bản đồ số 5, tọa lạc ấp 4, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu, ngày 28 tháng 12 năm 2020 bà Lê Thi G được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DA 873912; Ngày 17/3/2021 tiếp tục chuyển nhượng cho ông Lê Văn T diện tích 2.494,2m2 thửa số 442 tờ bản đồ số 5, tọa lạc ấp 5, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu, ngày 02 tháng 4 năm 2021, ông Lê Văn T được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 631880. Còn đối với một số tài sản khác thì chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[3] Căn cứ vào nội dung các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Lê Văn B và bà Giảng, bà Phụng, ông Lê Văn T, thể hiện:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị G gồm:
+ Hợp đồng ngày 11 tháng 11 năm 2020: diện tích chuyển nhượng 13.605m2 thửa số 840 tờ bản đồ số 5, tọa lạc ấp 4, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu; số tiền chuyển nhượng 420.000.000đ.
+ Hợp đồng ngày 11 tháng 12 năm 2020: diện tích chuyển nhượng 6.960,9m2 thửa số 335 tờ bản đồ số 5, tọa lạc ấp 4, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu; số tiền chuyển nhượng 220.000.000đ.
– Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Đỗ Thị P, lập ngày 21 tháng 10 năm 2020: diện tích chuyển nhượng 11.803,5m2 thửa số 281 tờ bản đồ số 5, tọa lạc ấp 4, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu; số tiền chuyển nhượng 410.000.000đ.
– Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn T: + Hợp đồng ngày 17 tháng 3 năm 2021: diện tích chuyển nhượng 2.494,2m2 thửa số 442 tờ bản đồ số 5, tọa lạc ấp 5, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu; số tiền chuyển nhượng 110.000.000đ.
+ Hợp đồng ngày 29 tháng 9 năm 2020: diện tích chuyển nhượng 6.700m2 thửa số 865 tờ bản đồ số 5, tọa lạc ấp 4, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu; số tiền chuyển nhượng 220.000.000đ.
Như vậy, việc chuyển nhượng những diện tích đất nêu trên cho bà Lê Thị G, vợ chồng bà Đỗ Thị P và ông Phạm Văn K; vợ chồng ông Lê Văn T và bà Phạm Thị N được thực hiện sau khi nguyên đơn đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân thị xã G và kết quả gải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm đều buộc bà ông Lê Văn B, bà Phan Thị H phải trả cho bà Lý Thị H 1.834.000.000 đồng. Đồng thời, giữa ông Lê Văn B và bà Lê Thi G có mối quan hệ anh em; ông Lê Văn B và bà Phan Thị H với ông Lê Văn T có mối quan hệ cha con, mẹ con ruột; ông Lê Văn B và bà Phan Thị H với ông Phạm Văn K có mối quan hệ bác xui. Do đó Toà án cấp sơ thẩm nhận định việc lập hợp đồng chuyển nhượng này nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba nên vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 124 Bộ luật dân sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Toà án cấp sơ thẩm nhận định các hợp đồng chuyển nhượng nêu trên là vô hiệu nhưng lại tuyên huỷ các hợp đồng này là không phù hợp với quy định phápluật tại Điều 122, 124 và 407 Bộ luật dân sự, nên cần sử lại cách tuyên trong Bản án phúc thẩm.
[5] Quá trình giải quyết vụ án thì ông Lê Văn T và bà Lê Thị G, bà Đỗ Thị P đều khai rằng sau khi bà Lê Thi G, bà Phụng nhận chuyển nhượng đất của ông Lê Văn B thì bà Lê Thi G, bà Phụng không có nhu cầu sử dụng đất nên cho ông Lê Văn T thuê, việc thoả thuận thuê đất không lập văn bản mà chỉ thoả thuận miệng. Xét đây chỉ là lời trình bày của đương sự mà không có chứng cứ nào khác vì vậy không có cơ sở chấp nhận, hơn nữa các đương sự trọng vụ án không có yêu cầu giải quyết về vấn đề này nên việc Toà án cấp sơ thẩm tuyên huỷ các hợp đồng thuê đất giữa ôg Thệ, bà Nguyệt với bà Lê Thi G, huỷ hợp đồng thuê đất giữ ông Lê Văn T, bà Nguyệt với bà Phụng, ông Kỳ là không đúng. Ngoài ra, tại phần quyết định của Bản án sơ thẩm, Toà án cấp sơ thẩm tuyên buộc ông Lê Văn T, bà Phạm Thị N, bà Lê Thị G giao đất lại cho ông Lê Văn B và bà Phan Thị H để đảm bảo cho việc kê biên thi hành án, xét việc tuyên buộc này là không cần thiết vì như đoạn trên đã nhận định các hợp đồng chuyển nhượng là giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ nên các quyền sử dụng đất này vẫn thuộc quyền sử dụng của ông Lê Văn B và bà Phan Thị H và Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền sẽ tiến hành kê biên tài sản khi bà Lý Thị H có đơn yêu cầu.
[6] Với các tài liệu chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Sửa một phần Bản án sơ thẩm theo như nhận định trên.
[7] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo luật định.
[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị bác kháng cáo của bị đơn và những người có quyền lọi nghĩa vụ liên quan là có căn cứ chấp nhận một phần.
[Nguồn: Bản án số: 126/2024/DS-PT ngày 23/3/2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 126/2024/DS-PT
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn