Feel free to go with the truth

Trang chủ / BIỂU MẪU VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Bị xử tội sử dụng tài sản trái phép khi

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Bị xử tội sử dụng tài sản trái phép khi

  1. Bị xử tội sử dụng tài sản trái phép khi

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo và người bị hại trong hạn luật định, hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Đặng Trần H và Đặng Thị Ngọc L có đơn xin rút đơn kháng cáo, nhận thấy việc rút kháng cáo của các bị cáo là tự nguyện, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo Đặng Trần H và Đặng Thị Ngọc L.

Về sự vắng mặt của bị hại: Tòa án đã triệu tập Công ty S có người đại diện theo pháp luật là ông Nguyễn Trường S theo địa chỉ mà người bị hại đã cung cấp. Địa chỉ này thể hiện trong hồ sơ vụ án là địa chỉ kinh doanh của Công ty S đăng ký. Tòa án đã tiến hành xác minh và niêm yết công khai tại địa chỉ do người bị hại cung cấp nhưng người bị hại vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quyết định xét xử vắng mặt người bị hại.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị hại là Công ty S:

Theo đơn kháng cáo, ông Nguyễn Trường S là đại diện theo pháp luật của Công ty S kháng cáo yêu cầu chuyển tội danh và tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo Đặng Trần H và Đặng Thị Ngọc L. Về yêu cầu này Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1] Về tội danh áp dụng đối với các bị cáo:

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: trong khoảng thời gian từ tháng 5/2009 đến tháng 12/2009, được sự giới thiệu của Trịnh Thanh N1, Đặng Trần H gặp và giới thiệu với ông Nguyễn Trường S là Công ty G của H có nguồn phân bón để bán cho Công ty của ông S, đồng thời giới thiệu đầu ra là Công ty N sẽ mua lại cho ông S với giá cao hơn, ông S sẽ có lãi. H đưa ông S đi xem hàng ở các kho cảng, bến bãi để ông S tin tưởng, ký họp đồng và chuyển tiền cho H. Sau khi ký 14 hợp đồng mua bán, nhận được tiền ông S chuyển, H thực hiện việc mua bán khống giữa hai Công ty do H lập ra là Công ty G và Công ty N, lấy tiền của ông S ở hợp đồng sau trả cho hợp đồng trước, tạo cho ông S số tiền lãi giả là 3.468.000.000 đồng. Do đó, ông S tiếp tục ký 04 hợp đồng mua bán phân bón và chuyển cho H 25.000.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, H không sử dụng toàn bộ số tiền trên vào mục đích kinh doanh phân bón như đã thỏa thuận mà sử dụng 3.500.000.000 đồng vào mục đích cá nhân như H khai nhận chi tiết sử dụng mua 01 căn nhà tại số 27 đường 16, Phường 4, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, thửa đất số 90 thuộc tờ bản đồ số 22 tại Ấp 4, xã Tiến Thành, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước và 01 xe ô tô hiệu Ford, biển kiểm soát 54T-8037. Quá trình điều tra xác định lời khai của H phù hợp về thời gian và vị trí những tài sản mà H đã mua. Đặng Thị Ngọc L (là em ruột Đặng Trần H), được H giao đứng tên làm Giám đốc Công ty N đã có hành vi ký các hợp đồng, hóa đơn liên quan đến việc mua phân bón của Công ty Avà Công ty S để cho H nhận khoản tiền đầu tư nói trên từ ông S đưa về Công ty N, tạo điều kiện cho H sử dụng một phần trong số tiền trên vào mục đích cá nhân.

Với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo Đặng Trần H và Đặng Thị Ngọc L phạm tội “Sử dụng trái phép tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 142 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2] Về mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo:

Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng. Sau khi thỏa thuận về việc hợp tác đầu tư cùng kinh doanh phân bón, thông qua 04 hợp đồng mua bán phân bón, Đặng Trần H đã nhận của công ty TNHH MTV S tổng cộng 25.000.000.000 đồng nhưng không sử dụng toàn bộ tài sản trên vào mục đích kinh doanh phân bón như đã thỏa thuận mà sử dụng 3.500.000.000 đồng vào các mục đích cá nhân gây thiệt hại cho bị hại. Do đó, phải áp dụng khoản 3 Điều 142 Bộ Luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 để xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng. Tuy nhiên, khi lượng hình tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, sau khi thực hiện thành vi phạm tội đã tích cực khắc phục hậu quả.

Trong đó, bị cáo Đặng Trần H là người trực tiếp nhận tiền đầu tư từ ông Nguyễn Trường S thông qua công ty G và cũng là người trực tiếp sử dụng trái phép toàn bộ số tiền 3.500.000.000 đồng nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc hơn. Vì vậy bản án sơ thẩm đã áp dụng khoản 3 Điều 142 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đặng Trần H 05 (năm) năm 9 (chín) tháng 28 (hai mươi tám) ngày là tương xứng với tính hành vi và hậu quả phạm tội do bị cáo gây ra.

Đối với Đặng Thị Ngọc L có mức độ đồng phạm có hạn chế vì cả nể, phụ thuộc bị cáo H nên Tòa án cấp sơ thẩm xét không cần bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách nhất định cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo. Vì vậy đã áp dụng khoản 3 Điều 142 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đặng Thị Ngọc L 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án là có căn cứ, tương xúng với tính chất hành vi phạm tội, hậu quả do bị cáo gây ra. Hội đồng xét xử nhận thấy, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo có tính cưỡng chế nghiêm khắc thể hiện ở chỗ các bị cáo H, L bị tước bỏ; hạn chế quyền tự do, quyền về tài sản; quyền về chính trị, để lại hậu quả pháp lý là án tích cho các bị cáo trong thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị hại là Công ty S, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về tội danh và mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo. Quan điểm của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, án phí và xử lý vật chứng không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Do các bị cáo rút đơn kháng cáo tại phiên tòa phúc thẩm nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[Nguồn: Bản án PT số 133/2022/HS-PT Ngày 21/3/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:

📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn

♥️ Fanpage and Group:

https://www.facebook.com/fdvnlawfirm

https://www.facebook.com/lawyersindanang

https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat

https://www.facebook.com/groups/saymengheluat

https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam

🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Xem file đính kèm toàn văn Bản án: Bản án PT số 133/2022/HS-PT

Bài viết liên quan