NHẬNN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:
* Về tố tụng:
[1] Về thẩm quyền: Bà Hoàng Thị H khởi kiện yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị X2, ông Hoàng Ngọc Đ với bà Nguyễn Thị H2; đồng thời yêu cầu hủy quyết định cấp GCNQSD đất và GCNQSD đất số BE 110372, ngày 30/6/2011 do UBND huyện N cấp cho bà Nguyễn Thị H2 và ông Phạm Ngọc G và GCNQSD đất số BD 973391, ngày 18/01/2012 do UBND huyện N cấp cho bà Nguyễn Thị H2 và ông Phạm Ngọc G. Đây là vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự; do có yêu cầu xem xét đến quyết định cấp GCNQSD đất và GCNQSD đất của UBND huyện N; đây là quyết định hành chính cá biệt của cơ quan hành chính Nhà nước cấp huyện trong lĩnh vực quản lý đất đai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo trình tự sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh. Vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa thụ lý, giải quyết theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định tại Điều 32 Luật Tố tụng hành chính và khoản 3 Điều 26, Điều 34, Điều 37, Điều 38, Điều 41 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về xác định tư cách đương sự tham gia tố tụng và sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa: Cấp sơ thẩm đã xác định nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đúng quy định của pháp luật; tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm một số đương sự vắng mặt nhưng đã có người đại diện có mặt, hoặc đã được triệu tập lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, hoặc có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ là đúng quy định tại Điều 227; Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Quá trình giải quyết vụ án, phía nguyên đơn đã rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với nội dung tranh chấp liên quan đến 20m2 đất ở được ghi trong GCNQSD đất của ông G, bà H2; xét thấy việc rút yêu cầu là tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ việc giải quyết đối với nội dung này là đúng quy định.
* Về nội dung: Xét kháng cáo của bà Hoàng Thị H, Hội đồng xét xử thấy:
[4] Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, cũng như các đương sự thừa nhận thì Cụ Hoàng Ngọc S và cụ Nguyễn Thị X2 là vợ chồng được quyền sử dụng thửa đất thuộc thửa số 96, tờ bản đồ số 01, diện tích 400m2 (trong đó 150m2 đất ở và 250m2 đất KT) tại thị trấn N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, đất đã được UBND huyện N cấp GCNQSD đất ngày 30/07/1988 mang tên Hoàng Ngọc S. Sau khi cụ S chết thì ngày 03/6/2011 bà Nguyễn Thị X2 và ông Hoàng Ngọc Đ (là con bà X2 và ông S) đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị H2 một phần diện tích của thửa đất nêu trên là 125m2 (trong đó 60m2 đất ở và 65m2 đất CHN) với giá là 65.000.000đ. Việc chuyển nhượng được lập thành văn bản viết tay thể hiện ngày 03/6/2011. Tuy nhiên, sau đó ngày 08/6/2011 bà Nguyễn Thị X2 và ông Hoàng Ngọc Đ với bà Nguyễn Thị H2 đã thiết lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo đúng quy định, hợp đồng chuyển nhượng có đầy đủ chữ ký của bên chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng và được UBND thị trấn N chứng thực; nội dung của hợp đồng thể hiện đầy đủ các thông tin như diện tích đất, loại đất, tứ cận, giá chuyển nhượng…và kèm theo trích lục thửa đất. Ông Hoàng Ngọc Đại thừa n chữ ký trong hợp đồng chuyển nhượng là của ông và của bà X2, tại thời điểm chuyển nhượng các bên minh mẫn, không bị ép buộc, bên nhận chuyển nhượng đã thanh toán đầy đủ giá trị cho bên chuyển nhượng, đồng thời đã đăng ký, kê khai và đã được UBND huyện N cấp GCNQSD đất. Mặc dù bà X2 và ông Đ chuyển nhượng một phần diện tích đất trong thửa đất có nguồn gốc của ông S và bà X2; nhưng diện tích chuyển nhượng chưa vượt quá 50% của tổng diện tích thửa đất, nên việc chuyển nhượng này của bà X2 chỉ trong phạm vi quyền về tài sản của cụ, không làm ảnh hưởng đến quyền về tài sản là di sản của ông S. Do đó, xét về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ Nguyễn Thị X2, ông Hoàng Ngọc Đ với bà Nguyễn Thị H2 là hợp pháp, việc chuyển nhượng đã được kê khai, đăng ký và đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận bằng việc cấp GCNQSD đất cho bà Nguyễn Thị H2, ông Phạm Ngọc G, nên không có căn cứ xác định đây là hợp đồng vô hiệu.
[5] Đối với yêu cầu của nguyên đơn về hủy quyết định cấp GCNQSD đất và hủy GCNQSD đất, thấy: Như đã phân tích ở trên thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị X2 với bà Nguyễn Thị H2 là hợp pháp. Do đó, việc UBND huyện N, tỉnh Thanh Hóa cấp GCNQSD đất cho ông G, bà H2 trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, theo báo cáo của UBND thị trấn N và UBND nhân dân huyện N, thì trong quá trình cấp đổi từ GCNQSD đất số BE 110372, ngày 30/6/2011 sang GCNQSD đất số BD 973391, ngày 18/01/2012 có sự sai sót ghi từ 60m2 đất ở thành 80m2 đất ở; nhưng không ảnh hưởng đến diện tích đất ở trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất số 99/ĐKRĐ, thửa đất số 96, tờ bản đồ số 1, diện tích 400m2 do UBND huyện N cấp cho ông Hoàng Ngọc S ngày 30/07/1988. Gia đình ông G, bà H2 đã có đơn đề nghị thu hồi lại GCNQSD đất số BD 973391 cấp ngày 18/01/2012 do có sai sót về diện tích đất ở. UBND huyện N cũng đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn xem xét để thu hồi, chỉnh lý sự sai sót này, nên không cần thiết phải hủy GCNQSD đất số BD 973391 ngày 18/01/2012, chỉ cần điều chỉnh lại diện tích đất ở và đất trồng cây hàng năm cho chính xác với diện tích đất đã nhận chuyển nhượng của bà Lê Thị X là 60m2 đất ở và 65m2 đất CHN là phù hợp.
Tổng hợp các phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm đã giải quyết đúng quy định của pháp luật; đã xem xét đảm bảo được quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đương sự; tại cấp phúc thẩm không có thêm tình tiết gì mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Hoàng Thị H. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.
[6] Án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bà Hoàng Thị H phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
[Nguồn: Bản án số 148/2024/DS-PT ngày 44/42024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH CẤP CAO TẠI HÀ NỘI]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 148/2024/DS-PT
……………..
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, đường Nguyễn Văn Linh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn