Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Bản án về tranh chấp hợp đồng ủy quyền

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Bản án về tranh chấp hợp đồng ủy quyền

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng:

[1.1] Đơn kháng cáo của ông Huỳnh Kim H đảm bảo yêu cầu theo quy định tại Điều 272 và nộp trong thời hạn quy định tại Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[1.2] Bị đơn bà Lê Thị T vắng mặt tại phiên tòa dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, Văn phòng công chứng Phạm Phi H. vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, xử vắng mặt các đương sự trên. [2] Xét yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Kim H:

[2.1] Đối với Hợp đồng ủy quyền ngày 25-10-2021:

Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, bị đơn và ông H đều thừa nhận hợp đồng ủy quyền này được ký kết nhằm đảm bảo cho việc trả khoản nợ 500.000.000 đồng mà ông H, bà H vay của bà T. Nay ông H đã trả xong số tiền 500.000.000 đồng cho bà T và bà T không còn yêu cầu gì đối với ông H, bà H. Do vậy, đã có đủ căn cứ kết luận hợp đồng ủy quyền trên là hợp đồng giả cách nhằm che giấu và đảm bảo cho việc vay tiền giữa hai bên. Nay việc vay tiền đã được trả xong, người ủy quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền trên vô hiệu, bên được ủy quyền cũng không có yêu cầu, ý kiến gì về yêu cầu của nguyên đơn. Do vậy, cấp sơ thẩm tuyên xử hợp đồng ủy quyền trên vô hiệu là có căn cứ và đúng pháp luật nên cần giữ nguyên. Kháng cáo của ông Huỳnh Kim H là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[2.2] Đối với Hợp đồng ủy quyền lại ngày 21-6-2022:

Theo bà H, khi ký hợp đồng ủy quyền ngày 25-10-2021, bà không đọc nội dung nên không biết đây là hợp đồng ủy quyền. Tuy nhiên, lời khai này của bà H là không có căn cứ vì bà H là người biết chữ nên trước khi ký vào hợp đồng, bà phải đọc nội dung và đồng ý ký với nội dung hợp đồng thì mới ký. Bà xác nhận đã tự nguyện ký vào hợp đồng trên nên bà phải chịu trách về nội dung hợp đồng này, trong đó có điều khoản cho phép bà Lê Thị T ủy quyền lại cho người thứ 3 thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng ngày 25-10-2021. Do đó, việc bà T ký hợp đồng ủy quyền lại cho ông Huỳnh Kim C là trong phạm vi ủy quyền.

Tuy nhiên, ở cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bà T, ông H và ông C đều khai thống nhất về việc: Bà T ký hợp đồng ủy quyền lại ngày 21-6-2022 là theo yêu cầu của ông H và ông C, nhằm đảm bảo cho việc ông H vay ông C số tiền 6,5 tỷ đồng, sau khi ông H trả hết khoản nợ trên thì hai bên sẽ hủy hợp đồng ủy quyền lại này. Do vậy, đủ căn cứ xác định hợp đồng ủy quyền lại này là hợp đồng giả cách, che giấu và đảm bảo cho hợp đồng vay tiền. Mặt khác, tại Điều 5 của Hợp đồng ủy quyền ngày 25-10-2021 có thỏa thuận: “Bên B có các nghĩa vụ sau đây: Thực hiện công việc ủy quyền và báo cho bên A về việc thực hiện công việc đó”. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, bà T xác nhận khi ủy quyền lại cho ông C, bà thực hiện theo yêu cầu của ông H và ông C chứ bà H không biết, bà không thông báo cho bà H biết đã ủy quyền lại cho ông C. Điều này đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà H đối với thửa đất 589. Ông H và ông C khẳng định bà H có biết việc ủy quyền lại này nhưng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh.

Như vậy, Hợp đồng ủy quyền lại ngày 21-6-2022 là hợp đồng giả cách và bên được ủy quyền đã vi phạm nghĩa vụ thông báo cho bên ủy quyền về việc thực hiện công việc được ủy quyền. Mặt khác, do Hợp đồng ủy quyền ngày 25-10- 2021 vô hiệu do giả tạo nên việc bà T căn cứ vào hợp đồng vô hiệu này để ký hợp đồng ủy quyền lại ngày 21-6-2022 là trái pháp luật. Vì vậy, cấp sơ thẩm căn cứ Điều 123, Điều 124 Bộ luật dân sự 2015 tuyên hợp đồng ủy quyền lại này vô hiệu là phù hợp quy định của pháp luật.

[2.3] Về việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu:

Do hai hợp đồng ủy quyền trên bị vô hiệu nên căn cứ khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự, các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Do bà T xác nhận đã nhận lại số tiền 500.000.000 đồng từ ông H và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét. Bà T có nhận 01 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng sau đó giao lại cho ông C. Hiện ông C xác nhận đang giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất 589. Cấp sơ thẩm không tuyên buộc ông C phải trả lại cho ông H, bà H bản chính giấy chứng nhận trên là thiếu sót, không giải quyết triệt để vụ án. Vì vậy, cần sửa bản án sơ thẩm, tuyên buộc ông C trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE 324827 ngày 4-11-2016 (đăng ký sang tên cho ông H, bà H ngày 10-01-2017) cho ông H, bà H.

Đối với khoản tiền 6,5 tỷ đồng: Ông H và ông C đều khai khoản vay này là có thật và là nợ chung của ông H, bà H. Còn bà H khai hoàn toàn không biết về khoản nợ này, không sử dụng số tiền trên nên không đồng ý trả nợ cho ông C. Xét, ngoài lời khai của chính mình, ông C và ông H không cung cấp được chứng cứ nào khác chứng minh việc ông H, bà H có vay ông C số tiền trên. Chỉ một mình ông H xác nhận có vay ông C 6,5 tỷ đồng và hiện ông H đang một mình trả lãi cho khoản nợ trên. Tại cấp sơ thẩm, mặc dù đã được Thẩm phán giải thích về quyền yêu cầu trả nợ nhưng ông C không yêu cầu ông H, bà H trả khoản nợ trên. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông C cũng không kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã giải thích pháp luật và hậu quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng ủy quyền và hợp đồng ủy quyền lại bị vô hiệu nhưng ông C và ông H vẫn xác nhận: Hiện nay, hàng tháng ông H vẫn trả lãi của khoản nợ trên đầy đủ cho ông C và khoản nợ trên chưa đến hạn thanh toán nên ông C và ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với khoản tiền 6,5 tỷ đồng trong vụ án này. Nếu sau này giữa các bên phát sinh tranh chấp sẽ khởi kiện vụ án khác. Xét đây là quyền tự định đoạt của đương sự và không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự khác nên cấp sơ thẩm không giải quyết đối với khoản tiền 6,5 tỷ đồng trên mà dành quyền khởi kiện vụ án khác cho đương sự là phù hợp quy định của pháp luật.

Kháng cáo của ông H đối với việc giải quyết hợp đồng ủy quyền lại là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[2.4] Từ những căn cứ và nhận định trên, Hội đồng xét xử thống nhất không chấp không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông Huỳnh Kim H, sửa một phần bản án sơ thẩm nhằm giải quyết triệt để vụ án.

[3] Về án phí sơ thẩm: Cấp sơ thẩm giải quyết đúng quy định pháp luật nên giữ nguyên.

[4] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo không được chấp nhận nên ông H phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[Nguồn: Bản án số 90/2023/DS-PT ngày 20/6/2023 của TÒA ÁN NHÂN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 90/2023/DS-PT

———–

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan