NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Đơn kháng cáo của bị đơn ông Ngô Văn U nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nên hợp lệ, được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đều đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh và Văn phòng Công chứng CC (nay là Văn phòng Công chứng DTH) có đơn xin xét xử vắng mặt; bà Lê Thị Cẩm L1 vắng mặt không có lý do; bà Ngô Trương Ngọc Tr, ông Ngô Công T1 và ông Ngô Công T2 có đơn xin xét xử vắng mặt nhưng không hợp lệ; nên Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án vắng mặt các đương sự này theo quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Q là Luật sư Vũ Anh T vắng mặt không có lý do; Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu hoãn phiên tòa phúc thẩm của bà Q với lý do vắng mặt Luật sư Vũ Anh T.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến trình bày và tranh tụng tại phiên tòa của các đương sự và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; sau khi nghe ý kiến, quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền và thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Ngô Văn U, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Bà Trần Thị Ngọc Q được Sở Tài Nguyên và Môi Trường Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CI838065, số vào sổ cấp GCN: CS08519, ngày 25/9/2017 đối với thửa đất số 508, tờ bản đồ số 11, diện tích đất 142,7m2 , tại xã TTH, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh, là trên cơ sở hồ sơ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (không có tài sản gắn liền với đất) lập ngày 02/6/2017 tại Văn phòng Công chứng CC, Thành phố Hồ Chí Minh, số công chứng 019469, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD, giữa bên chuyển nhượng là bà Lê Thị Cẩm L1 và bên nhận chuyển nhượng là bà Trần Thị Ngọc Q. Theo Hợp đồng này thì bà Lê Thị Cẩm L1 là người có quyền sử dụng đất (không có tài sản gắn liền với đất) thửa đất số 508, tờ bản đồ số 11, xã TTH, huyện CC, căn cứ theo các chứng từ sở hữu đã được cơ quan có thẩm quyền cấp gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AĐ424411, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H00230/15, do UBND huyện CC cấp ngày 16/3/2006 đứng tên bà Trương Kim L, đăng ký thay đổi ngày 26/10/2015 do chuyển nhượng cho bà L1. Ngày 26/10/2015, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện CC cập nhật sang tên bà Lê Thị Cẩm L1 đối với thửa đất số 508, tờ bản đồ số 11, diện tích đất 142,7m2 , tại xã TTH, huyện CC tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AĐ424411, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H00230/15 ngày 16/3/2006 là trên cơ sở hồ sơ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (không có tài sản gắn liền với đất) lập ngày 06/12/2014 tại Văn phòng Công chứng CC, số công chứng 026581, quyển số 04TP/CC-SCC/HĐGD, giữa bên chuyển nhượng là bà Trương Kim L và bên nhận chuyển nhượng là bà Lê Thị Cẩm L1 đối với thửa đất nêu trên.
[2.2] Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Ngô Văn U, ông U đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bà Trương Kim L, trình bày cho rằng quyền sử dụng đất thửa số 508 là do vợ chồng ông U, bà L nhận chuyển nhượng của ông Trương Văn B vào năm 2006 (hiện nay ông B đã chết). Do chiều ngang thửa đất có 3m không tách thửa được nên phải làm thủ tục tặng cho bà Trương Kim L đứng tên quyền sử dụng đất nêu trên. Sau đó, ông U làm có tiền và xây dựng nhà trên đất không có xin phép cơ quan chức năng và không đăng ký quyền sở hữu căn nhà trên đất.
Năm 2014, bà L vay tiền của bà Lê Thị Cẩm L1 nên đã thế chấp quyền sử dụng đất cho bà L1 nhưng ông U không biết. Sau đó, vợ chồng ông U, bà L không có tiền trả cho bà L1 nên bà L1 đã làm thủ tục sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hai bên phát sinh tranh chấp.
Tại Biên bản hòa giải ngày 08/4/2016 của UBND xã TTH, huyện CC, ông Ngô Văn U và bà Lê Thị Cẩm L1 đã thỏa thuận ông U trả cho bà L1 mỗi tháng 5.000.000 (năm triệu) đồng nộp cho Cán bộ Tư pháp xã cho đến khi nào trả xong số nợ 550.000.000 đồng, bà L1 có trách nhiệm sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông U.
Từ tháng 5/2016 đến tháng 3/2017, ông U đã thực hiện trả cho bà L1 tổng cộng được 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, đến tháng 4/2017, tại UBND xã TTH, Cán bộ tư pháp, hộ tịch xã đã lập biên bản trả lại cho ông U số tiền 10.000.000 đồng của tháng 01 và tháng 02 năm 2017 với lý do hiện nay bà L1 không đến Ủy ban nhân dân xã nhận số tiền nêu trên và bà L1 đã trốn khỏi địa phương.
Xét lời trình bày của ông Ngô Văn U như trên phù hợp với nội dung lời trình bày của bà Lê Thị Cẩm L1 tại Biên bản hòa giải ngày 08/4/2016 của UBND xã TTH, huyện CC, bà L1 thừa nhận cho bà Trương Kim L vay số tiền 500.000.000 đồng và bà L đã thế chấp quyền sử dụng đất cho bà L1. Sau đó, bà L trả lãi được 30.000.000 đồng theo mức lãi suất 4%/tháng. Khoảng nửa tháng sau, bà L vay thêm số tiền 50.000.000 đồng có làm giấy tay rồi từ đó bà L không trả lãi và vốn cho bà L1. Bà L1 có đến nhà tìm bà L nhưng chồng bà L báo bà L đã đi khỏi nhà không biết đi đâu. Bà có báo cho chồng bà L biết là sẽ sang tên quyền sử dụng đất nhưng vẫn không thấy bà L trả nợ nên tháng 10/2015 bà L1 đã làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất
Với những tài liệu, chứng cứ nêu trên đủ cơ sở xác định việc bà Trương Kim L và bà Lê Thị Cẩm L1 xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng thực chất chỉ là thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo cho số nợ vay. Việc chuyển nhượng đất giữa bà L với bà L1 là giả tạo nhằm che dấu một giao dịch dân sự khác là giao dịch vay tài sản và giao dịch vay tài sản giữa các bên vẫn chưa giải quyết xong. Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 06/12/2014 tại Văn phòng Công chứng CC, giữa bà Trương Kim L và bà Lê Thị Cẩm L1, đối với thửa đất số 508, là thuộc trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005. Trên cơ sở hồ sơ Hợp đồng này, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện CC cập nhật sang tên bà L1 đối với đối với thửa đất này tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AĐ 424411 ngày 16/3/2006, là không hợp pháp.
dụng đất lập ngày 06/12/2014 tại Văn phòng Công chứng CC, giữa bà Trương Kim L và bà Lê Thị Cẩm L1, đối với thửa đất số 508, là thuộc trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005. Trên cơ sở hồ sơ Hợp đồng này, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện CC cập nhật sang tên bà L1 đối với đối với thửa đất này tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AĐ 424411 ngày 16/3/2006, là không hợp pháp.
[2.4] Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Trần Thị Ngọc Q là người thứ ba ngay tình trong việc xác lập, thực hiện hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Lê Thị Cẩm L1, là không có căn cứ; vì các lẽ sau:
Trong quá trình tham gia tố tụng, bà Trần Thị Ngọc Q cho rằng, sau khi ký hợp đồng với bà L1 tại Văn phòng Công chứng, hai bên đã bàn giao nhà đất; sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà Q đến khu đất thì phát hiện ông Ngô Văn U đã tự động bẻ khóa cửa nhà và ở trong căn nhà trên đất, nhưng bà Q không xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh.
Hơn nữa, Hồ sơ vụ án thể hiện, trước khi bà L và bà L1 lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa số 508 thì trên thửa đất này đã có căn nhà 01 trệt, 01 lầu do vợ chồng ông U, bà L xây dựng từ trước và gia đình họ vẫn đang sinh sống tại đây. Đồng thời, không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện bà L1 đã được vợ chồng bà L, ông U bàn giao thửa đất số 508 hoặc/và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất này. Vì vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 02/6/2017 tại Văn phòng Công chứng CC, Thành phố Hồ Chí Minh, số công chứng 019469, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD, giữa bên chuyển nhượng là bà L1 và bên nhận chuyển nhượng là bà Q đối với thửa đất số 508 lại ghi chuyển nhượng quyền sử dụng đất (không có tài sản gắn liền với đất), là không đúng với thực tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông U, bà L.
Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên đủ cơ sở xác định, sau khi bà Q và bà L1 ký Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 508, hai bên không có việc bàn giao nhà đất như lời trình bày của bà Q nêu trên.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 02/6/2017 giữa bên chuyển nhượng là bà L1 và bên nhận chuyển nhượng là bà Q không có nội dung điều khoản nào quy định ông U và những người đang thực tế cư ngụ tại thửa đất số 508 phải có trách nhiệm giao trả thửa đất này cho bà Q. Trong khi đó, tại Điều 3 của Hợp đồng nêu trên có quy định bên chuyển nhượng là bà L1 phải có trách nhiệm giao quyền sử dụng thửa đất số 508 cho bà Q. Qua đó nhận thấy, việc bà Q khởi kiện yêu cầu ông U và những người đang thực tế cư ngụ tại thửa đất số 508 phải có trách nhiệm giao trả thửa đất này cho bà Q, là không đúng đối tượng theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 02/6/2017 giữa bên chuyển nhượng là bà L1 và bên nhận chuyển nhượng là bà Q.
Từ những nhận định nêu trên xét thấy, bà Q không phải là người thứ ba ngay tình trong việc xác lập, thực hiện hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 508 của bà L1; Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự bị vô hiệu đối với bà Q trong vụ án này, là không đúng.
[2.5] Kháng cáo của bị đơn ông Ngô Văn U là có cơ sở được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Q; chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông Ngô Văn U.
[3] Việc giải quyết hậu quả vô hiệu của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (không có tài sản gắn liền với đất) giữa bên chuyển nhượng là bà Lê Thị Cẩm L1 với bên nhận chuyển nhượng là bà Trần Thị Ngọc Q đối với quyền sử dụng đất thửa số 508, tờ bản đồ số 11, địa chỉ thửa đất tại xã TTH, huyện CC, được Văn phòng Công chứng CC Công chứng ngày 02/6/2017, số công chứng 019469, quyển số 2TP/CC – SCC/HĐGD, sẽ được giải quyết bằng vụ án dân sự khác theo quy định pháp luật nếu các đương sự có liên quan có đơn khởi kiện yêu cầu.
[4] Những ý kiến, quan điểm của Luật sư trình bày tại phiên tòa phúc thẩm để bảo vệ quyền và lợi ích cho người kháng cáo ông Ngô Văn U là phù hợp với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên được chấp nhận.
[5] Những ý kiến, quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Ngô Văn U, giữ nguyên bản án sơ thẩm, do không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên không được chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự:
[6.1] Do sửa bản án sơ thẩm, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định lại nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, như sau:
+ Nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện không được Tòa án chấp nhận và phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối theo phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Ngô Văn U được Tòa án chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 1, 3, 5 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
+ Bị đơn ông Ngô Văn U không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[6.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo ông Ngô Văn U, theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật.
[Nguồn: Bản án số 180/2022/DS-PT ngày 28/3/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 180/2022/DS-PT
———–
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn