Feel free to go with the truth

Trang chủ / BIỂU MẪU VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Bản án về tham ô mua bán hóa đơn của trung tâm viễn thông

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Bản án về tham ô mua bán hóa đơn của trung tâm viễn thông

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi phạm tội của các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T và Nguyễn Trí P :

Các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T cùng bị truy tố và xét xử về hai tội: tội “Tham ô tài sản” theo Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và tội “In, phát hành, mua-bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước” theo Điều 203 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Bị cáo Nguyễn Trí P bị truy tố và xét về một tội: tội “Tham ô tài sản” theo Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo nói trên kháng cáo bản án sơ thẩm, cụ thể như sau:

-Các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T chỉ kháng cáo về tội “Tham ô tài sản”; không kháng cáo về tội “In, phát hành, mua-bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước” (nội dung kháng cáo đã trình bày ở phần trên);

– Bị cáo Nguyễn Trí P kháng cáo về tội “Tham ô tài sản” (nội dung kháng cáo đã trình bày ở phần trên).

Xét kháng cáo của các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T và Nguyễn Trí P , Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy như sau:

[1.1] Xét về hành vi thuê khống máy phát điện của bị cáo Nguyễn Trí P để chiếm đoạt 72.000.000 đồng (nhưng đã khắc phục toàn bộ):

Trong thời gian làm Giám đốc Trung tâm VT XM(trong khoảng thời gian từ ngày 01/06/2011 đến ngày 01/03/2012), mặc dù Trung tâm VT XMkhông thuê nơi đặt máy phát điện (dự phòng) nhưng Nguyễn Trí P vẫn chỉ đạo Phạm Đức Nhật (là tổ trưởng tổ kinh doanh) lập hồ sơ, soạn thảo hợp đồng ngày 04/01/2010, ký khống với Trương Thành T để thuê 4 phòng đặt máy phát điện với giá là 500.000 đồng/phòng máy/tháng trong thời hạn 02 năm; đến ngày 10/06/2011, tiếp tục ký gia hạn hợp đồng (khống) thêm 01 năm, tổng thời hạn thuê khống là 03 năm, số tiền là 72.000.000 đồng, để rút tiền của Trung tâm Viễn thông X M.

Như vậy, việc Nguyễn Trí P chỉ đạo cấp dưới lập hồ sơ khống, rút tiền của Trung tâm Viễn thông X M, để chiếm đoạt, sử dụng vào mục đích cá nhân, đã phạm tội “Tham ô tài sản” theo Khoản 1 Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015 với một tình tiết định khung hình phạt. Về hậu quả, số tiền 72.000.000 đồng đã được khắc phục xong.

Xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trí P trình bày nói trên, là chưa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận những ý kiến này.

[1.2] Xét về hành vi của bị cáo Phạm Văn D , bị cáo Đậu Quang T lập hồ sơ khống 76 khách hàng ảo mua các mặt hàng máy tính laptop, máy tính bảng, điện thoại các loại và bán hàng trả chậm cho nhân viên để chiếm đoạt 331.677.537 đồng:

Vào ngày 24/09/2013, Viễn thông tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ra văn bản số 858/VNPT-BRVT-KH cho phép Trung tâm VT XMtriển khai việc bán hàng hóa, thiết bị viễn thông, nhưng cho trả chậm.

Lợi dụng chính sách nói trên, Phạm Văn D (Giám đốc Trung tâm Viễn thông X M) chỉ đạo Đậu Quang T (tổ phó tổ kinh doanh của Trung tâm Viễn thông X M), căn cứ vào số tiền có trong tài khoản của Trung tâm Viễn thông X M, liên hệ mua hóa đơn khống theo số tiền tương ứng, tạo lập khách hàng ảo (là những khách hàng đã được cung cấp dịch vụ điện thoại, internet có hồ sơ tại Trung tâm Viễn thông X M), tạo lập hồ sơ khống, bán hàng khống để rút tiền của Trung tâm VT XM(tổng số tiền là 741.581.000 đồng), rồi sau đó, phân kỳ trả chậm trong 12 tháng và nộp lại tiền hàng tháng, được 409.903.463 đồng. Cho đến nay, số tiền còn lại là 331.677.537 đồng chưa trả lại (gồm khoản tiền do lập hồ sơ khống của 76 khách hàng ảo chưa nộp lại, là 310.851.667 đồng và tiền bán hàng trả chậm cho nhân viên chưa thu được, là 20.825.870 đồng).

Như vậy, với hành vi tạo lập hồ sơ khống, bán hàng khống, để rút tiền của Trung tâm Viễn thông X M, chiếm đoạt số tiền 331.677.537 đồng, thì Phạm Văn D và Đậu Quang T đã phạm tội “Tham ô tài sản” theo Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh và ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Văn D trình bày nói trên, là chưa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận những ý kiến này.

[1.3] Xét về hành vi của bị cáo Phạm Văn D đã chỉ đạo bị cáo Nguyễn Đình M , bị cáo Đậu Quang T, bị cáo Phạm Đức Nhật lập 21 hợp đồng khống cung cấp dịch vụ điện thoại, internet cho dự án Hồ Tràm để chiếm đoạt số tiền 4.477.394.113 đồng, trong đó bị cáo Phạm Văn D , bị cáo Nguyễn Đình M , bị cáo Đậu Quang T thực hiện 19/21 hợp đồng (chiếm đoạt số tiền 4.477.394.113 đồng – 411.450.000 đồng = 4.065.944.113 đồng); bị cáo Phạm Đức Nhật thực hiện 02/21 hợp đồng (chiếm đoạt số tiền 411.450.000 đồng):

Vào ngày 17/09/2012, Trung tâm VT XMký hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ viễn thông số 01/VNPT-MGM với công ty TNHH dự án Hồ Tràm, nội dung chính như sau:

– Trung tâm VT XMcung cấp cho công ty TNHH Dự án Hồ Tràm các dịch vụ viễn thông như: dịch vụ điện thoại cố định, Internet, dịch vụ điện thoại di động (bao gồm thiết bị là điện thoại di động)…..

Trong thực tế, công ty TNHH dự án Hồ Tràm chỉ cần 91 máy, nhưng Phạm Văn D đã chỉ đạo Nguyễn Đình M , Đậu Quang Thế, Phạm Đức Nhật lập hợp đồng mua tổng cộng 433 máy (mua khống thêm 342 máy); lập hợp đồng, mua khống hóa đơn thông thường của cửa hàng Bách hóa tổng hợp Thanh Thúy (được Đỗ Ngọc Thanh Thúy xuất 13 hóa đơn, doanh số 3.974.350.000 đồng); lập hợp đồng, mua khống hóa đơn thông thường của cửa hàng điện thoại Hồng Hà (được Nguyễn Đình M  xuất 05 hóa đơn, doanh số 324.000.000 đồng) và lập hợp đồng, mua hóa đơn GTGT của công ty TNHH Xây dựng Thương mại Dịch vụ Viễn thông Tiến Hưng (được Nguyễn Đình M xuất 03 hóa đơn, doanh số 1.582.000.000 đồng, đã bao gồm thuế GTGT); tiếp sau đó, lập khống hồ sơ bàn giao cho dự án Hồ Tràm, để từ đó rút tiền của Trung tâm VT XMvà phân kỳ nộp tiền lại theo từng tháng. Cho đến nay, số tiền thiếu hụt do các bị cáo chiếm đoạt, là 4.477.394.113 đồng.

Trong số 21 hợp đồng và 21 hóa đơn để lập hồ sơ khống, rút tiền của Trung tâm Viễn Thông X M, Phạm Văn D , Nguyễn Đình M và Đậu Quang T, với chức vụ, nhiệm vụ của mình, đã tham gia lập hồ sơ khống để chiếm đoạt số tiền 4.477.394.113 đồng của Trung tâm Viễn thông X M; các bị cáo này đã phạm tội “Tham ô tài sản” theo Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đối với Phạm Đức Nhật, bị cáo chỉ biết và tham gia thực hiện hợp đồng số 09-2012/HĐKT/VTXM-BHTH THANH THUY, hóa đơn số 58349, số tiền ghi trên hóa đơn là 34.200.000 đồng; hợp đồng số 11-2012/HĐKT/VTXM-BHTH THANH THUY, hóa đơn số 31688, số tiền ghi trên hóa đơn là 377.250.000 đồng; Phạm Đức Nhật không biết về 19 hợp đồng còn lại, nên chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền chiếm đoạt trong 02 hợp đồng mà Phạm Đức Nhật tham gia, là 411.450.000 đồng; Phạm Đức Nhật đã phạm tội “Tham ô tài sản” theo Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về số tiền mà các bị cáo đã chiếm đoạt trong việc cung cấp khống dịch vụ cho công ty TNHH dự án Hồ Tràm, Tòa án cấp sơ thẩm đã có sai sót, như sau:

-Theo bản kết luận giám định ngày 05/03/2018 về hoạt động tài chính của Trung tâm VT XM(từ ngày 01/01/2010 đến ngày 31/7/2014), tổ giám định của Sở Tài chính tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận rằng giá trị thất thoát, thiệt hại, tổng cộng là 5.823.364.462 đồng, trong đó, thiệt hại xảy ra trong việc cung cấp khống dịch vụ cho công ty TNHH dự án Hồ Tràm là 4.477.394.113 đồng.

Số tiền thiệt hại nói trên (liên quan đến việc cung cấp khống dịch vụ cho công ty TNHH dự án Hồ Tràm) là số tiền đã trừ ra khoản tiền 175.090.611 đồng mà bị cáo Đậu Quang T đã nộp lại từ trước khi Tập đoàn Viễn thông Việt Nam, Viễn thông tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tiến hành làm việc với Trung tâm VT XM(về những sai sót xảy ra tại nơi đây) và từ trước khi khởi tố vụ án. Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm vẫn tiếp tục trừ đi (hai lần) đối với số tiền này (175.090.611 đồng) vào số tiền thất thoát tại dự án Hồ Tràm (4.477.394.113 đồng), là chưa đúng (trừ lần thứ nhất: phần nhận xét về bị cáo Đậu Quang T, trang 24, dòng thứ 20 đến 26, từ trên xuống của bản án sơ thẩm; trừ lần thứ hai: phần nhận xét về bị cáo Phạm Đức Nhật, trang 26, dòng thứ 1 đến thứ 4 từ dưới lên của bản án sơ thẩm).

Để việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, sai sót nói trên của Tòa án cấp sơ thẩm sẽ được sửa lại như sau:

– Về trách nhiệm hình sự: xác định bị cáo Phạm Văn D , bị cáo Nguyễn Đình M , bị cáo Đậu Quang T thực hiện 21 hợp đồng (chiếm đoạt số tiền là 4.477.394.113 đồng); bị cáo Phạm Đức Nhật thực hiện 02/21 hợp đồng (chiếm đoạt số tiền là 411.450.000 đồng);

– Về trách nhiệm dân sự: xác định bị cáo Phạm Văn D , bị cáo Nguyễn Đình M , bị cáo Đậu Quang T thực hiện 19/21 hợp đồng (chiếm đoạt số tiền là 4.477.394.113 đồng – 411.450.000 đồng = 4.065.944.113 đồng); bị cáo Phạm Đức Nhật thực hiện 02/21 hợp đồng (chiếm đoạt số tiền là 411.450.000 đồng); các bị cáo sẽ phải bồi thường những khoản tiền tương ứng, cho Tập đoàn Viễn thông Việt Nam.

[1.4] Xét về hành vi của bị cáo Phạm Văn D , bị cáo Đậu Quang T, bị cáo Nguyễn Đình M trong việc mua-bán trái phép hóa đơn để chạy doanh thu:

Từ tháng 03/2012 đến tháng 07/2014, Phạm Văn D làm Giám đốc Trung tâm Viễn thông X M.

Do Viễn thông tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu áp dụng việc khoán doanh thu bán hàng (sim, card điện thoại di động….), nên Phạm Văn D đã chỉ đạo Nguyễn Đình M , Đậu Quang T, Nguyễn Duy Anh, Trần Thị Thủy mua hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT) khống, xuất khống hóa đơn, lập hồ sơ khống doanh thu bán hàng, cụ thể như sau:

-Trong khoảng thời gian từ tháng 03/2012 đến tháng 06/2013, các bị cáo đã mua của công ty Quỳnh Anh 123 tờ hóa đơn GTGT, ghi khống mặt hàng là “thẻ cào” với tổng doanh số là 58.597.927.600 đồng;

-Trong khoảng thời gian từ tháng 06/2013 đến tháng 07/2014, Phạm Văn D chỉ đạo mua của công ty Tiến Hưng 82 tờ hóa đơn GTGT, ghi mặt hàng là “thẻ cào” với tổng doanh số 38.469.515.700 đồng. Để công ty Tiến Hưng không phải nộp thuế (thuế hàng hóa mua vào của 82 tờ hóa đơn), Phạm Văn D tiếp tục chỉ đạo Nguyễn Đình M , Đậu Quang T, Nguyễn Duy Anh, Trần Thị Thủy mua của công ty Quỳnh Anh 35 tờ hóa đơn, ghi khống mặt hàng là “thẻ cào” với tổng doanh số 38.444.159.396 đồng, rồi xuất cho công ty Tiến Hưng.

Như vậy, hành vi của các bị cáo được xác định như sau:

– Phạm Văn D , Giám đốc, chịu trách nhiệm trong việc chỉ đạo mua 158 hóa đơn khống của công ty Quỳnh Anh (doanh số là 97.042.086.996 đồng) và chịu trách nhiệm về việc mua 82 hóa đơn mua của công ty Tiến Hưng (doanh số là 38.469.515.700 đồng); tổng doanh số là 135.511.602.696 đồng;

– Nguyễn Đình M , Kế toán trưởng, chịu trách nhiệm nhận và xuất hóa đơn để chạy doanh thu, số lượng là 158 hóa đơn của công ty Quỳnh Anh (doanh số là 97.042.086.996 đồng) và 82 hóa đơn mua của công ty Tiến Hưng (doanh số là 38.469.515.700 đồng), doanh số tổng cộng là 135.511.602.696 đồng;

– Đậu Quang T trực tiếp ký vào các phiếu đề xuất và nhận 123 hóa đơn mua của công ty Quỳnh Anh, doanh số là 58.597.927.600 đồng.

Như vậy, Phạm Văn D , Nguyễn Đình M cùng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua-bán trái phép hóa đơn đối với số hóa đơn mua bán với công ty Tiến Hưng, là 82 hóa đơn, của công ty Quỳnh Anh, là 158 hóa đơn, doanh số tổng cộng là 135.511.602.696 đồng; Đậu Quang T cùng chịu trách nhiệm đối với 123 hóa đơn mua của công ty Quỳnh Anh, doanh số là 58.597.927.600 đồng; Phạm Văn D , Nguyễn Đình M và Đậu Quang T phạm tội “In, phát hành, mua- bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước” theo các Điểm a, e Khoản 2 Điều 203 của Bộ luật Hình sự năm 2015 với hai tình tiết định khung hình phạt.

[2] Xét về điều luật áp dụng đối với các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T và Nguyễn Trí P :

[2.1] Các bị cáo Phạm Văn D , Đậu Quang T, Nguyễn Đình M và Nguyễn Trí P phạm tội “Tham ô tài sản”, số tiền chiếm đoạt phải chịu trách nhiệm hình sự như sau:

– Phạm Văn D : chiếm đoạt 331.677.537 đồng thông qua việc lập hồ sơ khống mua-bán hàng với 76 khách hàng ảo; chiếm đoạt 4.477.394.113 đồng thông qua việc lập 21 hợp đồng khống trong dự án Hồ Tràm (cung cấp dịch vụ điện thoại, dịch vụ internet); tổng cộng là 4.809.071.650 đồng;

– Đậu Quang T: chiếm đoạt 331.677.537 đồng thông qua việc lập hồ sơ khống mua-bán hàng với 76 khách hàng ảo; chiếm đoạt 4.477.394.113 đồng thông qua việc lập 21 hợp đồng khống trong dự án Hồ Tràm (cung cấp dịch vụ điện thoại, dịch vụ internet); tổng cộng là 4.809.071.650 đồng;

– Nguyễn Đình M : chiếm đoạt 4.477.394.113 đồng thông qua việc lập 21 hợp đồng khống trong dự án Hồ Tràm (cung cấp dịch vụ điện thoại, dịch vụ internet);

– Nguyễn Trí P : chiếm đoạt 72.000.000 đồng thông qua việc thuê khống máy phát điện, nhưng đã khắc phục xong toàn bộ.

[2.2] Các bị cáo Phạm Văn D , Đậu Quang T, Nguyễn Đình M phạm tội “Tham ô tài sản” theo Điểm b Khoản 3 Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015 với một tình tiết định khung hình phạt (gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng); bị cáo Nguyễn Trí P phạm tội “Tham ô tài sản” theo Khoản 1 Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015 với một tình tiết định khung hình phạt (chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng).

Các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T còn phạm tội “In, phát hành, mua-bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước” theo Điểm a; e Khoản 2 Điều 203 của Bộ luật Hình sự năm 2015 với hai tình tiết định khung hình phạt (phạm tội có tổ chức; gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước từ 100.000.000 đồng trở lên).

[2.3] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xem xét và đánh giá đúng vai trò của từng bị cáo trong vụ án, đã xử phạt các bị cáo hình phạt như sau:

– Xử phạt bị cáo Nguyễn Trí P 02 năm tù về tội “Tham ô tài sản”;

– Xử phạt bị cáo Phạm Văn D 13 năm tù về tội “Tham ô tài sản” và 18 tháng tù về tội “In, phát hành, mua-bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”;

– Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình M 11 năm tù về tội “Tham ô tài sản” và 01 năm tù về tội “In, phát hành, mua-bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”;

– Xử phạt bị cáo Đậu Quang T 11 năm tù về tội “Tham ô tài sản” và 01 năm tù về tội “In, phát hành, mua-bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”.

Các bị cáo kháng cáo, yêu cầu xem xét lại bản án sơ thẩm, xem xét giảm hình phạt, nhưng không có tình tiết gì mới, Tòa án cấp phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận.

[3] Đối với yêu cầu của Tập đoàn BCVT Việt Nam (tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại):

Sau khi xét xử sơ thẩm, Tập đoàn BCVT Việt Nam không kháng cáo bản án sơ thẩm.

Vào các ngày 25/08/2020; 16/11/2020, Tập đoàn BCVT Việt Nam, do ông Võ Tấn Hiền làm người đại diện, có văn bản đề nghị xem xét lại về số liệu tính toán trong bản án sơ thẩm về thiệt hại của Tập đoàn BCVT Việt Nam.

Xét thấy, trong thời hạn kháng cáo, Tập đoàn BCVT Việt Nam không kháng cáo bản án sơ thẩm đã giải quyết những quyền lợi của đương sự. Như vậy, về nguyên tắc, phần bản án sơ thẩm liên quan đến quyền lợi của Tập đoàn BCVT Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật.

Tuy nhiên, khi đối chiếu những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và qua những tài liệu, chứng cứ phân tích ở những phần nói trên, Tòa án cấp phúc thẩm có căn cứ xác định như sau:

-Về trách nhiệm dân sự: tổng số tiền thiệt hại mà các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T, Phạm Đức Nhật phải bồi thường trong dự án hồ Tràm, là 4.477.394.113 đồng; trách nhiệm cụ thể của từng bị cáo được xác định như sau:

-Các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T phải liên đới bồi thường số tiền (4.477.394.113 đồng – 411.450.000 đồng) = 4.065.944.113 đồng;

– Bị cáo Phạm Đức Nhật phải bồi thường 411.450.000 đồng.

Trong quá trình Tập đoàn BCVT Việt Nam và Viễn thông tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu thanh tra, kiểm tra Trung tâm Viễn thông X M, các bị cáo nói trên đã tự nguyện nộp tiền để khắc phục hậu quả. Ngoài ra, Viễn thông tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu còn đang giữ một khoản tiền (tiền lương và thu nhập khác) của các bị cáo; tổng số tiền của mỗi bị cáo được xác định như sau:

– Bị cáo Phạm Văn D : đã nộp 1.200.000.000 đồng (khắc phục hậu quả); Viễn thông tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đang giữ (tiền lương và thu nhập khác), là 58.500.937 đồng; tổng cộng là (1.200.000.000 đồng + 58.500.937 đồng) = 1.258.500.937 đồng;

– Bị cáo Nguyễn Đình M : đã nộp 450.000.000 đồng (khắc phục hậu quả); Viễn thông tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đang giữ (tiền lương và thu nhập khác), là 18.562.979 đồng; tổng cộng là (450.000.000 đồng + 18.562.979 đồng) = 468.562.979 đồng;

-Bị cáo Đậu Quang T: Viễn thông tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đang giữ (tiền lương và thu nhập khác), là 4.715.822 đồng;

-Bị cáo Phạm Đức Nhật: đã nộp 356.000.000 đồng (khắc phục hậu quả); Viễn thông tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đang giữ (tiền lương và thu nhập khác), là 18.872.356  đồng;  tổng  cộng  là  (356.000.000  đồng  +  18.872.356  đồng)  = 374.872.356 đồng;

– Bị cáo Nguyễn Trí P : đã nộp 500.000.000 đồng (khắc phục hậu quả).

Như vậy, về trách nhiệm dân sự trong dự án Hồ Tràm, các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T, Phạm Đức Nhật còn phải bồi thường như sau:

-Các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T phải liên đới bồi thường số tiền 4.065.944.113 đồng; số tiền mà các bị cáo đã nộp và số tiền mà Viễn thông tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đang giữ của các bị cáo, là (của bị cáo Phạm Văn D là 1.258.500.937 đồng + của bị cáo Nguyễn Đình M là 468.562.979 đồng + của bị cáo Đậu Quang T là 4.715.822 đồng) = 1.731.779.738 đồng. Như vậy, các bị cáo còn phải bồi thường (4.065.944.113 đồng – 1.731.779.738 đồng) = 2.334.164.375 đồng;

-Bị cáo Phạm Đức Nhật phải bồi thường 411.450.000 đồng; số tiền mà bị cáo đã nộp là 356.000.000 đồng (khắc phục hậu quả) và số tiền mà Viễn thông tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đang giữ (tiền lương và thu nhập khác), là 18.872.356 đồng; tổng cộng là (356.000.000 đồng + 18.872.356 đồng) = 374.872.356 đồng. Như vậy, bị cáo Phạm Đức Nhật còn phải bồi thường (411.450.000 đồng – 374.872.356 đồng) = 36.577.644 đồng.

[4] Xét về phần trách nhiệm dân sự, với sự phân tích nói trên, Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm bồi thường, xử lý vật chứng, xử lý số tiền mà các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T, Phạm Đức Nhật và Nguyễn Trí P đã nộp (để khắc phục hậu quả) (phần thứ II của quyết định của bản án sơ thẩm) và sửa bản án sơ thẩm về phần án phí liên quan đến các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T, Phạm Đức Nhật (án phí hình sự và dân sự) (phần thứ III của quyết định của bản án sơ thẩm), cụ thể như sau:

[4.1] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng, xử lý số tiền mà các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T, Phạm Đức Nhật và Nguyễn Trí P đã nộp:

– Trách nhiệm dân sự trong dự án Hồ Tràm: các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M và Đậu Quang T còn phải liên đới bồi thường số tiền là 2.334.164.375 đồng; bị cáo Phạm Đức Nhật còn phải bồi thường số tiền là 36.577.644 đồng;

-Trách nhiệm dân sự trong việc lập hồ sơ khống của 76 khách hàng ảo: các bị cáo Phạm Văn D và Đậu Quang T phải liên đới bồi thường số tiền 331.677.537 đồng;

-Viễn thông tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu phải trả lại cho bị cáo Nguyễn Trí P số tiền là 500.000.000 đồng;

-Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 461.348.597 đồng (khoản tiền thu lợi bất chính từ việc mua-bán trái phép hóa đơn giá trị gia tăng mà các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nộp-Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đang quản lý theo tài khoản số 3949.0.1053923.00000 mở tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu).

[4.2] Về án phí sơ thẩm:

-Về án phí hình sự: các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M , Đậu Quang T, Phạm Đức Nhật và Nguyễn Trí P , mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng;

-Về án phí dân sự:

Trong dự án Hồ Tràm: các bị cáo Phạm Văn D , Nguyễn Đình M và Đậu Quang T còn phải liên đới bồi thường số tiền là 2.334.164.375 đồng. Do đó, các bị cáo phải chịu án phí là 78.683.000 đồng. Bị cáo Phạm Đức Nhật còn phải bồi thường số tiền là 36.577.644 đồng. Do đó, bị cáo phải chịu án phí là 1.828.800 đồng;

Trong việc lập hồ sơ khống của 76 khách hàng ảo: các bị cáo Phạm Văn D và Đậu Quang T còn phải liên đới bồi thường số tiền 331.677.537 đồng. Do đó, các bị cáo phải chịu án phí là 16.583.800 đồng.

[Nguồn: Bản án số 163/2022/HS-PT Ngày 08/4/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:

📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn

♥️ Fanpage and Group:

https://www.facebook.com/fdvnlawfirm

https://www.facebook.com/lawyersindanang

https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat

https://www.facebook.com/groups/saymengheluat

https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam

🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Xem file đính kèm toàn văn Bản án: 163/2022/HS-PT

Bài viết liên quan