Feel free to go with the truth

Trang chủ / BIỂU MẪU VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Bản án về chuyển nhượng cổ phần công ty qua bán đấu giá

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Bản án về chuyển nhượng cổ phần công ty qua bán đấu giá

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét kháng cáo của bị đơn là Công ty Cổ phần T1 và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Châu Ngọc P3, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1]     Bà Châu Ngọc P3 là một cổ đông của Công ty Cổ phần T1 có 800.000 cổ phần, với giá trị mỗi cổ phần bằng 8.000 đồng, tương đương 8.000.000.000 đồng chiếm 10% số cổ phần trong Công ty Cổ phần T1. Năm 2012 bà Châu Ngọc P3 và chồng là ông Trần Quốc T2 có tranh chấp hợp đồng vay tài sản với một số cá nhân. Kết quả giải quyết, Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Dĩ An ra 3 quyết định công nhận sự thỏa thuận sau:

– Quyết định số 56/2012/QĐST-DS ngày 30/5/2012 buộc ông Trần Quốc T2 và bà Châu Ngọc P3 có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị T4 22.500.000.000 đồng.

– Quyết định số 57/2012/QĐST-DS ngày 30/5/2012 buộc ông Trần Quốc T2 và bà Châu Ngọc P3 có trách nhiệm trả cho bà Lê Thị H 332.400.000 đồng.

– Quyết định số 58/2012/QĐST-DS ngày 30/5/2012 buộc ông Trần Quốc T2 và bà Châu Ngọc P3 có trách nhiệm trả cho ông Lê Minh T5 2.800.000.000 đồng.

Các quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên đã được Chi cục Thi hành án dân sự D thụ lý và ra các quyết định thi hành án tương ứng với các quyết định của Tòa án đã có hiệu lực, nhưng sau đó Cục Thi hành án dân sự tỉnh B có quyết định rút hồ sơ thi hành án.

Ngày 04/01/2017 Chấp hành viên Cục Thi hành án dân sự tỉnh B ra Quyết định cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản số 03/QĐ-CTHADS, trong đó đã kê biên 800.000 cổ phần phổ thông của bà C9hâu Ngọc P3 trong Công ty Cổ phần T1. Cơ quan thi hành án đã trưng cầu Công ty Cổ phần giám định và thẩm định Eximvas thẩm định giá cổ phần với kết quả theo Chứng thư thẩm định giá số 17165/CT-EXIMVAS ngày 18/5/2017: xác định giá khởi điểm để bán đấu giá cổ phần thời điểm tháng 05/2017 làm tròn là: 1.677 đồng/cổ phần. Đến ngày 01/11/2017 Cục Thi hành án dân sự tỉnh B ký Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với Trung tâm Dịch vụ đấu giá tài sản – Sở Tư pháp tỉnh B bán đấu giá 782.180 cổ phần của bà Châu Ngọc P3 tại Công ty Cổ phần T1. Thực hiện hợp đồng trên, Trung tâm đã tiến hành bán đấu giá thành và đã ký Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá số 24 ngày 23/11/2017 với người mua được tài sản là bà Vương Lệ X. Bà X đã thanh toán đầy đủ số tiền 1.352.000.000 đồng vào tài khoản cơ quan thi hành án.

Ngày 09/5/2018 Cục Thi hành án dân sự tỉnh B lập biên bản làm việc với Công ty Cổ phần T1 tại trụ sở của Công ty tại 32C khu phố N, phường B1, thị xã D, tỉnh Bình Dương để yêu cầu Công ty Cổ phần T1 ghi tên người mua trúng tài sản đấu giá vào sổ đăng ký cổ đông của Công ty Cổ phần T1. Tuy nhiên, người đại diện theo pháp luật của Công ty và bà Châu Ngọc P3 vắng mặt, không tham gia.

Ngày 28/5/2018 Cục Thi hành án dân sự có Công văn số 915/TB- CTHADS thông báo Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương về việc bà Vương Lệ X là người mua được tài sản đấu giá là 782.180 cổ phần của bà Châu Ngọc P3 góp vốn vào Công ty Cổ phần T1 để Sở Kế hoạch và Đầu tư xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngày 31/5/2018 Cục Thi hành án dân sự có Công văn số 957/CTHADS- NV thông báo cho bà Vương Lệ X về quyền khởi kiện tại Tòa án để được ghi tên vào Sổ đăng ký cổ đông của Công ty Cổ phần T1.

Bà Vương Lệ X mua cổ phần của bà Châu Ngọc P3 không phải bằng hình thức chuyển nhượng cổ phần theo quy định tại Điều 126 Luật Doanh nghiệp. Việc mua cổ phần được thực hiện thông qua biện pháp cưỡng chế thi hành án do Chấp hành viên cơ quan thi hành án thực hiện nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản theo quyết định của Tòa án đã có hiệu lực khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án dân sự 2008 và Điều 101 Luật Thi hành án dân sự quy định bán tài sản.

[2.2] Cơ quan thi hành án đã tiến hành bán đấu giá cổ phần của bà Châu Ngọc P3 theo quy định của pháp luật. Đại diện cho bà Châu Ngọc P3 và Công ty Cổ phần T1 đã trả lời đã không có mua lại số cổ phần khi Cơ quan Thi hành án kê biên và đưa ra đấu giá vì nguồn lực tài chính. Hơn nữa, bà Châu Ngọc P3 và Công ty Cổ phần T1 không có quyền khiếu nại kết quả bán đấu giá. Theo quy định của pháp luật thì chỉ có chấp hành viên, tổ chức bán đấu giá tài sản và người mua trúng đấu giá là bà X. Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá số 24 ngày

23/11/2017 giữa Trung tâm Dịch vụ đấu g1i0á tài sản – Sở Tư pháp tỉnh B và bà Vương Lệ X đã có hiệu lực và các bên đã thi hành; không có quyết định có hiệu lực nào của cơ quan có thẩm quyền tuyên vô hiệu hợp đồng này hoặc hủy bỏ kết quả đấu giá.

[2.3] Việc chuyển nhượng cổ phần đã hoàn thành nên người nhận cổ phần phải được ghi tên vào sổ đăng ký cổ đông và trở thành cổ đông của Công ty Cổ phần T1 theo quy định tại khoản 2 Điều 121 và khoản 7 Điều 126 Luật Doanh nghiệp 2014. Công ty Cổ phần T1 không hợp tác với bà Vương Lệ X nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận việc bà X khởi kiện yêu cầu Công ty phải ghi tên bà X vào sổ đăng ký cổ đông để trở thành cổ đông của Công ty là có căn cứ.

[2.4] Đơn kháng cáo bà P3 đề nghị hủy án vì cho rằng bà không nhận được các thông báo, giấy triệu tập của Tòa án cấp sơ thẩm, đơn kháng cáo bà ghi địa chỉ liên lạc là địa chỉ của Công ty số 32C, khu phố N, phường B1, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Tòa án cấp sơ thẩm đã tống đạt, niêm yết đúng quy định tại địa chỉ của bà số 782 N2, Phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh và tại địa chỉ của công ty do công ty là bị đơn. Các lập luận do luật sư trình bày đề nghị hủy án tại phiên tòa phúc thẩm là không có căn cứ, không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Công ty Cổ phần T1 và bà Châu Ngọc P3, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, giữ nguyên án sơ thẩm.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Công ty Cổ phần T1 và bà Châu Ngọc P3 phải chịu do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.

[Nguồn: Quyết đinh GĐT số 11/2022/KDTM-PT Ngày 28/02/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:

📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn

♥️ Fanpage and Group:

https://www.facebook.com/fdvnlawfirm

https://www.facebook.com/lawyersindanang

https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat

https://www.facebook.com/groups/saymengheluat

https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam

🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định: 11/2022/KDTM-PT

 

Bài viết liên quan