Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Bản án tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; tuyên vô hiệu hợp đồng thuê nhà và Hủy phần đính chính trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Bản án tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; tuyên vô hiệu hợp đồng thuê nhà và Hủy phần đính chính trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên toà. Sau khi nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang. Hội đồng xét xử nhận định

Xét kháng cáo của ông G và bà VA, Hội đồng xét xử thấy:

[1]. Đối với kháng cáo của ông G, bà VA đề nghị: Tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 19/02/2014 giữa ông G, bà VA và ông T, bà HL là vô hiệu thì thấy: Xét về nội dung và hình thức của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ký giữa ông G, bà VA và ông T, bà HL ngày 19/02/2014, qua trình bày của các đương sự cũng như tài liệu chứng cứ thu thập được thể hiện, ông T, bà HL và ông G, bà VA đến Văn phòng công chứng XG làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với nhà đất tại số 57, ngõ 6A, đường NKN, phường TNH, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang hai lần, cụ thể: Lần 1 vào ngày 23/01/2014, các bên có ký hợp đồng, do chưa thống nhất được về giá mua, nên ông T không mua và bỏ về, Văn phòng công chứng XG chưa công chứng hợp đồng. Lần 2 vào ngày 19/02/2014, các bên đến Văn phòng công chứng XG, hai bên có ký hợp đồng, Văn phòng công chứng XG đã vào sổ và Công chứng đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Theo như hồ sơ công chứng của Văn phòng công chứng XG cung cấp bao gồm: Phiếu yêu cầu công chứng hợp đồng, văn bản của ông G, bà VA (khi nộp phiếu yêu cầu công chứng ông G, bà VA nộp kèm theo giấy chứng minh nhân dân; sổ hộ khẩu; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đơn xác nhận tình trạng thửa đất toàn bộ là bản photo). Sau khi xem xét toàn bộ hồ sơ đề nghị Công chứng, Văn phòng Công chứng XG đã lấy số công chứng 239/2014, Quyển số 05/TP/CC-SCC/HĐCN. Văn phòng Công chứng XG công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 19/02/2014 giữa ông G, bà VA và ông T, bà HL là đúng quy định tại điểm 1 Mục II của Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT/BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 của Bộ Tư pháp, Bộ tài nguyên và môi trường hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất. Do vậy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông G, bà VA được.

[2]. Đối với kháng cáo của ông G, bà VA đề nghị huỷ hợp đồng thuê nhà ký ngày 19/02/2014, giữa ông T, bà HL và vợ chồng ông, Hội đồng xét xử thấy: Xét về nội dung và hình thức của Hợp đồng thuê nhà ký ngày 19/02/2014 giữa ông T, bà HL và ông G, bà VA. Theo như tài liệu chứng cứ thu thập được và trình bày của các bên thời hạn thuê nhà là 02 tháng. Tại điểm a khoản 3 Điều 93 Luật nhà ở năm 2005 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 và Điều 492 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Hợp đồng thuê nhà ở phải được lập thành văn bản, nếu thời hạn thuê từ 06 tháng trở lên thì phải có công chứng hoặc chứng thực…”. Do vậy hợp đồng thuê nhà mặc dù các bên có lập hợp đồng nhưng chưa công chứng chứng thực cũng không vi phạm các quy định của pháp luật. Do vậy không có căn cứ để chấp nhận đối với kháng cáo của ông G, bà VA.

[3]. Đối với kháng cáo của ông G, bà VA đề nghị hủy phần những thay đổi, bổ sung trong trang 4 do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã chỉnh lý ghi tên ông T, bà HL trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND thành phố BG đã cấp cho ông G, bà VA thì thấy: Theo như hồ sơ của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố BG cung cấp thể hiện ngày 19/02/2014, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố BG nhận được hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất mang tên T từ bộ phận Một cửa của UBND thành phố chuyển đến, quá trình thụ lý. Ngày 25/02/2014, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố BG nhận được đơn của ông G (bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất). Ông G, bà VA yêu cầu tạm dừng ngay việc chuyển nhượng đối với thửa đất số 20, tờ bản đồ số 10, diện tích 76,56 m2 tại tổ dân phố số 9, phường TNH mà ông T (người nhận chuyển nhượng) đã nộp hồ sơ vào bộ phận một cửa. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố BG đã dừng thụ lý và chuyển trả hồ sơ ra bộ phận một cửa. Ngày 19/6/2014, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố BG tiếp tục nhận được hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất mang tên T từ bộ phận Một cửa của UBND thành phố chuyển đến, trong hồ sơ có Quyết định số 24/2014/QĐST-DS ngày 06/6/2014 của Tòa án nhân dân thành phố BG về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Sau khi nhận được hồ sơ Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố BG có biên bản làm việc tại Tòa án thành phố BG và có phiếu chuyển thông tin địa chính để xác định nghĩa vụ tài chính và làm đúng trình tự thủ tục theo quy định tại Điều 127 Luật đất đai năm 2003 và Điều 148 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành luật đất đai. Do vậy không có căn cứ chấp nhận đối với kháng cáo của ông G và bà VA về việc hủy phần những thay đổi, bổ sung trong trang 4 do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã chỉnh lý ghi tên ông T, bà HL trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND thành phố BG đã cấp cho ông G, bà VA.

Tại phiên Toà phúc thẩm, ông G và bà VA không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào khác để bảo vệ cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp do vậy không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của ông G bà VA được cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ.

[4]. Về án phí: Do kháng cáo của ông G và bà VA không được chấp nhận nên ông G bà VA phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[Nguồn: Bản án số 68/2017/DS – PT ngày 29/9/2017 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 68/2017/DS – PT

———–

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan