Feel free to go with the truth

Trang chủ / BIỂU MẪU VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Bản án tuyên Hợp đồng tặng cho vô hiệu một phần và không công nhận hôn nhân thực tế, nuôi con thực tế.

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Bản án tuyên Hợp đồng tặng cho vô hiệu một phần và không công nhận hôn nhân thực tế, nuôi con thực tế.

21. Bản án tuyên Hợp đồng tặng cho vô hiệu một phần và không công nhận hôn nhân thực tế, nuôi con thực tế.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án cấp phúc thẩm đã 02 lần mở phiên tòa xét xử, nhưng do các đương sự có đơn xin hoãn phiên tòa có lý do chính đáng, nên phiên tòa ngày 30-12-2021 và phiên tòa ngày 25-02-2022 được hoãn lại; phiên tòa ngày 10-3-2022 được tiến hành theo quy định pháp luật.

[2] Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất tranh chấp: Các đương sự đều thừa nhận nguồn gốc các thửa đất số 392 và 2722 là tài sản chung của cụ Trần Võ L và cụ Lê Thị P. Nguyên thửa 392 diện tích147,78m2 và thửa đất số 2722, diện tích 179,77m2 là từ thửa 392 diện tích 327,55m2 tách ra. Nguồn gốc thửa 392 diện tích 327,55m2 được cụ Lê Thị P đứng tên đăng ký sử dụng đất (năm 1983) vào Sổ đăng ký ruộng đất theo Chỉ thị 299 (quyển số 01 trang số 192, số thứ tự 92, loại đất:T) là thửa 373 tờ bản đồ số 02 diện tích 480m2 (bút lục 321,322,326). Năm 2005, cụ Trần Võ L lập thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tên gọi là thửa 392 tờ bản đồ số 1 diện tích 327,55m2. Sau khi được cấp GCNQSDĐ, cụ Trần Võ L làm thủ tục tách thửa đất 392 cũ nêu trên thành 02 thửa đất là thửa đất số 2722 tờ bản đồ số 01 diện tích 179,77m2 và thửa đất số 392 tờ bản đồ số 01 diện tích 147,78m2. Như vậy, các thửa đất số 392 và 2722 là tài sản chung của cụ Trần Võ L và cụ Lê Thị P.

[3] Xem xét Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng thửa đất số 392 diện tích 147,78m2 giữa bên tặng cho là cụ Trần Võ L với bên được tặng cho là ông Trần Chí A, bà Bùi Thị Bích H. Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ Trần Võ L với ông Trần Chí A, bà Bùi Thị Bích H được lập thành văn bản, được UBND phường C, thành phố Q chứng thực số 135, quyển số 01/TP/CC-SCT/HĐGD ngày 24/4/2007.

Tại Kết luận giám định số 1312/ C45-P5 ngày 01/7/2014 của Viện Khoa học Hình sự – Tổng cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm, Bộ Công an đã kết luận chữ ký ghi “Bùi Thị Bích H” tại mục Bên B (bên được tặng cho) không phải chữ ký của bà Bùi Thị Bích H. Đồng thời bà H thừa nhận không có ký vào Hợp đồng tặng cho.

Nguyên đơn cho rằng chữ ký tại mục Bên A (bên tặng cho) trong hợp đồng không phải chữ ký của cụ Trần Võ L. Theo Kết luận giám định số 867/PC54 ngày 29/9/2014 của Phòng Kỹ thuật Hình sự – Công an tỉnh Quảng Ngãi thì chữ ký đứng tên “Trần Võ L” tại mục Bên A trong hợp đồng với chữ ký trong các mẫu so sánh do nguyên đơn giao nộp là cùng một người ký ra, tức chữ ký tại mục Bên A là của cụ L (BL 469); theo Kết luận giám định số 1312/C54-P5 ngày 01/7/2014 của Viện Khoa học Hình sự – Tổng cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm, Bộ Công an thì giữa chữ ký đứng tên “Trần Võ L” tại mục bên A trong hợp đồng với chữ ký trong các mẫu so sánh có một số đặc điểm khác nhau nhưng không đủ cơ sở kết luận không phải do cùng một người ký ra, từ đó, cơ quan giám định không đủ cơ sở kết luận người ký.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ khác gồm: Tại Đơn xin biến động về sử dụng đất lập ngày 12/12/2006 của cụ Trần Võ L, tại mục lý do biến động có ghi: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của tôi, bây giờ tôi cho hai đứa con trai là Trần B và Trần Chí A.”; Tại Đơn khiếu nại lần 2 đề ngày 21/8/2012 của cụ Trần Võ L (BL 28) có nội dung: “Vào năm 2007, tôi có phân chia và đã làm 2 thửa để cho 2 con trai sử dụng làm nhà ở lâu dài và thờ (phụng) tự lo hương khói cho tổ tiên ông bà cha mẹ, anh em. Mảnh đất có diện tích 355,5m2, một thửa phía Bắc tôi cho con trai lớn là Trần B có diện tích là 179,77m2 làm nhà ở. Một nửa phía Nam tôi cho con trai út là Trần Chí A có diện tích 147,78m2 để làm nhà ở và thừa tự hương khói. Con trai út tôi là Trần Chí A, vào tuổi trưởng thành, nó sống nay đây mai đó, không vợ con, không có cô nào là con dâu. Khi tôi phân chia đất tôi ký và chỉ cho một lô mình nó đứng tên, bây giờ tôi mới vỡ lẽ là nó có ghi tên cô Bùi Thị Bích H, đây là điều trật ý của tôi, bởi cô H là người không có con.” ; tại Đơn trình bày về việc chiếm dụng Sổ đỏ để vay vốn Ngân hàng đề ngày 15/02/2012 của cụ Trần Võ L (BL 27) có nội dung:“ Khi tôi phân chia đất cho nó, nhưng tưởng nó đứng tên một mình, nào ngờ nó lại kê khai tên vợ là cô Bùi Thị Bích H vào sổ đỏ. Tôi giận đòi đem chính quyền để hủy bỏ, nó nói phải có tên vợ thừa kế mới vay vốn Ngân hàng để làm ăn được. Nào ngờ cách mấy tháng sau con tôi ngã bệnh và chết vào tháng 3/2008.”

Như vậy, có đủ cơ sở xác định ý chí của cụ L đã tặng cho ông Trần Chí A thửa 392 diện tích 147,78m2. Cụ L không thừa nhận đã tặng cho đất bà Bùi Thị Bích H. Giữa ông A và bà H không có Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất tại thửa 392. Thửa 392 là tài sản chung của cụ Trần Võ L và cụ Lê Thị P. Tại thời điểm cụ L ký kết hợp đồng tặng cho vào ngày 24/4/2007 thì thửa 392 là tài sản chung của cụ Trần Võ L và các đồng thừa kế của cụ Lê Thị P. Như vậy, việc cụ L tự ý tặng cho ông A, bà H đối với toàn bộ thửa 392 mà không có sự đồng ý của các đồng thừa kế của cụ P, nên Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng thửa 392 chỉ có hiệu lực một phần đối với phần tài sản mà cụ L có quyền định đoạt; phần còn lại vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. Trong đó, đối với phần hợp đồng có hiệu lực, bên tặng cho là cụ Trần Võ L, bên được tặng cho là ông Trần Chí A; còn bà Bùi Thị Bích H không được xác định là bên được tặng cho vì bà H không ký vào hợp đồng và ý chí cụ L không đồng ý việc tặng cho bà H.

Từ các căn cứ nêu trên, Bản án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng thửa đất số 392 giữa bên tặng cho là cụ Trần Võ L với bên được tặng cho là bà Bùi Thị Bích H, ông Trần Chí A do UBND phường C, thành phố Q chứng thực ngày 24/4/2007 vô hiệu một phần là có căn cứ.

[4] Xem xét mối quan hệ giữa ông Trần Chí A với bà Bùi Thị Bích H

Bà Bùi Thị Bích H có giao nộp “Giấy khai đăng ký kết hôn ngày 29/4/1991” có xác nhận của Ban Giám đốc Xí nghiệp hóa phẩm có nội dung: “Đ/c Trần Chí A là CBCNV xí nghiệp Hóa phẩm, lý lịch rõ ràng, chưa kết hôn lần nào”. Tài liệu này không phải là Giấy chứng nhận kết hôn nên không có giá trị pháp lý chứng minh bà Bùi Thị Bích H có quan hệ hôn nhân hợp pháp với ông Trần Chí A.

Bị đơn thừa nhận ông Trần Chí A, bà Bùi Thị Bích H bắt đầu chung sống với nhau từ năm 1991 và không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại điểm b mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội thì nam, nữ chung sống với nhau từ sau ngày 03/01/1987 cho đến ngày 01/01/2001, có đủ điều kiện kết hôn mà sau ngày 01/01/2003 không thực hiện đăng ký kết hôn thì không công nhận họ là vợ chồng. Như vậy, giữa ông Trần Chí A và bà Bùi Thị Bích H không tồn tại mối quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật; đồng thời bà H cũng không được hưởng phần di sản thừa kế của ông A.

[5] Xem xét mối quan hệ con nuôi của anh Trần Gia B với ông Trần Chí A: bà Bùi Thị Bích H và anh Trần Gia B khai nhận anh Trần Gia B là con nuôi của ông Trần Chí A và bà Bùi Thị Bích H; khi nhận nuôi anh B, thì ông A và bà H không đăng ký việc nuôi con nuôi với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Bị đơn giao nộp Sổ liên lạc nhà trường và gia đình học sinh bậc tiểu học (năm học 2004-2005) của anh Trần Gia B, trong đó, tại mục Cha (hoặc người nuôi dưỡng) có chữ ký (không ghi họ tên) được xác định là của ông Trần Chí A. Ngoài ra, không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh ông Trần Chí A có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc như cha con với anh Trần Gia B.

Theo Giấy khai sinh thì người đi đăng ký khai sinh cho Trần Gia B là bà Bùi Thị Bích H, không phải ông Trần Chí A; việc nhận nuôi anh Trần Gia B cũng do bà H tự thực hiện, ông Trần Chí A không tham gia. Bên cạnh đó, các thành viên trong gia đình ông Trần Chí A, kể cả cụ Trần Võ L khi còn sống đều không thừa nhận anh Trần Gia B là con của ông Trần Chí A.

Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký thì phải đáp ứng một số điều kiện, trong đó, các bên phải có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi. Tại Điều 36 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 quy định: “Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự thoả thuận của hai vợ chồng người nuôi, của cha mẹ đẻ hoặc người đỡ đầu của người con nuôi chưa thành niên.”. Tuy nhiên, tại thời điểm nhận nuôi, giữa ông Trần Chí A với bà Bùi Thị Bích H không có quan hệ vợ chồng.

Do đó, việc ông Trần Chí A ký tên vào mục cha (hoặc người nuôi dưỡng) trong Sổ liên lạc của anh Trần Gia B không đủ căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa cha với con nuôi của ông Trần Chí A với anh Trần Gia B theo quy định của pháp luật; trong đó có quyền được thừa kế tài sản. Vì lẽ đó, anh Trần Gia B không có quyền khởi kiện tranh chấp đối với các tài sản liên quan đến ông Trần Chí A với tư cách là người thừa kế của ông Trần Chí A.

Đối với Kiến nghị thu hồi, hủy bỏ Giấy khai sinh của anh B trong bản án sơ thẩm là do phát hiện ông A chưa có thủ tục nhận con nuôi. Việc làm rõ ông A có phải là cha nuôi anh B hay không trong vụ án chỉ để nhằm làm rõ quyền được hưởng di sản thừa kế. Bản án sơ thẩm kiến nghị để Cơ quan có thẩm quyền xem xét, còn việc có thu hồi, hủy bỏ và cấp lại Giấy khai sinh hay không, thì thuộc thẩm quyền của UBND thành phố Q, sau khi đã xem xét sự việc theo đúng các quy định của pháp luật.

[6] Đối với căn nhà cấp 4 (bao gồm nhà tạm và nhà vệ sinh) có trên thửa 392, Bản án sơ thẩm xác định các ông, bà: Trần B, Trần Thị B, Trần Thị Minh N, Trần Thị Minh C, Trần Thị Minh T và Trần Thị Minh H, mỗi người có đóng góp

5.000.000 đồng; bà Bùi Thị Bích H đóng góp 21.600.000 đồng để xây dựng là có cơ sở. Tổng giá trị căn nhà tại thời điểm xây dựng là 51.600.000 đồng; số tiền bà H chi trả chiếm 41,86%, ông B và các chị em ông B chi trả chiếm 58,14%.

Tại Chứng thư thẩm định giá số: 1751/2019/VLAND-QNG ngày 27/12/2019 của  Công  ty  Thẩm  định  giá  Đất  Việt  xác  định  giá  trị  căn  nhà  hiện  nay  là 68.434.350    đồng.

Do bị đơn không có quyền sử dụng đất tại thửa 392 nên cần giao căn nhà cấp 4 có trên thửa 392 cho nguyên đơn và các chị em của nguyên đơn được quyền sở hữu và buộc họ phải thanh toán lại cho bà Bùi Thị Bích H số tiền tương ứng 41,86% giá trị căn nhà hiện nay, cụ thể là 28.646.620 đồng (đã làm tròn), trong đó, mỗi người phải trả cho bà H 4.774.436 đồng (đã làm tròn).

Các đương sự có quyền về tài sản không có yêu cầu chia tài sản chung, chia thừa kế đối với nhà, đất tại thửa 392 nên Bản án sơ thẩm không xem xét. Hiện nay, toàn bộ nhà, đất tại thửa đất số 392 đang do ông Trần B quản lý, sử dụng; các chị, em của ông Trần B cũng đề nghị giao cho ông Trần B quản lý, sử dụng đối với nhà, đất tại thửa 392. Do đó, ông Trần B được đại diện cho các đồng chủ sở hữu được quyền tiếp tục quản lý, sử dụng đối với nhà, đất trên; các tài sản khác có trên đất các đương sự không có tranh chấp nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[7] Từ những nhận định trên, Bản án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tài liệu chứng cứ để xét xử, quyết định phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Các đương sự kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng cứ mới làm thay đổi nội vụ án nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở để chấp nhận các kháng cáo.

Do không chấp nhận kháng cáo nên các đương sự kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Trần B và bà Bùi Thị Bích H là người cao tuổi nên được miễn nộp theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 /NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

[Nguồn: Bản án phúc thẩm số 66/2022/DS-PT Ngày 08/4/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:

📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn

♥️ Fanpage and Group:

https://www.facebook.com/fdvnlawfirm

https://www.facebook.com/lawyersindanang

https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat

https://www.facebook.com/groups/saymengheluat

https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam

🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Xem file đính kèm toàn văn Bản án: Bản án phúc thẩm số 66/2022/DS-PT

 

Bài viết liên quan