Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Bản án tranh chấp về thừa kế, yêu cầu tuyên vô hiệu Di chúc, vô hiệu Văn bản khai nhận di sản, hủy quyết định hành chính cá biệt.

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Bản án tranh chấp về thừa kế, yêu cầu tuyên vô hiệu Di chúc, vô hiệu Văn bản khai nhận di sản, hủy quyết định hành chính cá biệt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng:

[1]. Đơn kháng cáo ngày 15/08/2022 của nguyên đơn ông Huỳnh Thiết C và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Trần Văn Ch, bà Huỳnh Tuyết M, bà Phan Mỹ L2 và Cụ Trần Thị L là trong thời hạn luật định và hợp lệ, được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[2]. Trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm, ngày 27/8/2023 Cụ Trần Thị L chết. Cha của của cụ L là cụ Trần X, mẹ là cụ Dương Thị L đều đã chết trước năm 1975, chồng của cụ L là cụ Huỳnh Tòng P cũng chết trước cụ L. Cụ L không có con ruột chỉ có ông Trần Văn Ch là con nuôi. Do vậy ông Trần Văn Ch là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ L.

[3]. Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông Trần Văn Ch và bà Phan Mỹ L2, bà Huỳnh Tuyết M và Cụ Trần Thị L có yêu cầu độc lập là không phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 73 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bởi lẽ, các nội dung ông Ch, bà L2, chị M và cụ L có yêu cầu tòa án giải quyết thì nguyên đơn ông Huỳnh Thiết C đã có yêu cầu khởi kiện và đã được Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý nên các yêu cầu nêu trên của ông Ch, bà L2, chị M và cụ L không phải là yêu cầu độc lập nữa. Nhưng các thiếu sót này không ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các đương sự nên chỉ nêu ra để Tòa án cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.

* Về nội dung:

[4]. Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Huỳnh Thiết C và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Trần Văn Ch, bà Huỳnh Tuyết M, bà Phan Mỹ L2 và Cụ Trần Thị L, Hội đồng xét xử xét thấy:

Tại phiên tòa cấp phúc thẩm, ông Lê Vinh Thái B là người được nguyên đơn ủy quyền và Bà Lê Thị H là người được bị đơn ủy quyền đều thừa nhận nội dung:

Cụ Huỳnh Tòng P và cụ Trần Thị K chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1961, có 05 người con chung gồm: Ông Huỳnh Ký T (chết năm 2012, không có vợ con), ông Trần V, Bà Huỳnh Tú L1, ông Huỳnh Thiết C, ông Huỳnh Thiết Q (chết năm 2003, có vợ là bà Phan Mỹ L2 và con Huỳnh Tuyết M). Quá trình chung sống cụ P và cụ K có tạo lập tài sản chung là căn nhà số 73/1B Phạm Văn C, Phường 1, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng chưa được Nhà nước cấp giấy chứng nhận nhà đất. Ngày 20/11/2009 cụ Trần Thị K chết, không để lại di chúc.

Sau khi cụ K chết, ngày 18/7/2013 cụ P kết hôn với Cụ Trần Thị L (cụ L là em ruột của cụ K), cụ L về chung sống với cụ P tại căn nhà số 73/1B Phạm Văn C và nhận ông Trần Văn Ch làm con nuôi (Giấy chứng nhận con nuôi BL 150) (02 cụ không có con ruột chung).

Năm 2014, cụ P và cụ L đã kê khai để xin cấp giấy chứng nhận nhà đất tại số 73/1B Phạm Văn C. Ngày 05/6/2014, Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH22154 cho cụ P và cụ L.

Cụ L chỉ có công sức đóng góp gìn giữ, quản lý và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cho cụ P và cụ K. Căn cứ Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự các tình tiết sự kiện nêu trên được các đương sự thừa nhận là sự thật, không phải chứng minh.

[5]. Xét lời trình trình bày nêu trên của ông B và bà H là phù hợp với lời trình bày của ông B tại Biên bản hòa giải ngày 13/4/2021 (Bút lục 515), Văn bản trình bày ý kiến của ông B (Bút lục 438) có nội dung: “nguồn gốc căn nhà số 73/1B Phạm Văn C, Phường 1, Quận X, TP. HCM đang bị tranh chấp là căn nhà đã tồn tại hiện hữu từ thời Ông Huỳnh Tòng P và bà Trần Thị K (ông P và cụ K kết hôn trước năm 1963 nhưng không có làm giấy hôn thú). Do cụ Trần Thị K bị bệnh trước đó nên từ năm 1980 cụ Trần Thị L đã đến ở tại căn nhà này để chăm sóc cho cụ K (cụ L là em ruột của cụ K) và phụ cụ P làm ăn để nuôi các con của cụ P và cụ K”. Phù hợp với lời trình bày của bà H tại Biên bản hòa giải ngày 13/4/2021 (Bút lục 514), Biên bản hòa giải ngày 22/5/2020 (Bút lục 506), Biên bản hòa giải ngày 24/6/2019 (Bút lục 497), Biên bản hòa giải ngày 24/5/2019 (Bút lục 491) và Bản tự khai của bà H (Bút lục 426) đều có nội dung: “Nguồn gốc căn nhà: Căn nhà số 73/1B Phạm Văn C, Phường 1, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh cụ ông Huỳnh Tòng P, sinh năm 1930 đã chết năm 2014 và cụ Trần Thị K sinh năm 1944 dã chết năm 2009 tạo lập trước năm 1963. Gia đình ông Trần V chung sống với nhau từ đó cho đến nay. Năm 2014, cha ông Trần V là cụ Huỳnh Tòng P lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với căn nhà 73/1B Phạm Văn C, Phường 1, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, lúc đó cụ Trần Thị K đã chết, cụ P có kết hôn với cụ Trần Thị L nên đã được Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận số CH22154 ngày 05/6/2014 cho cụ Huỳnh Tòng P và cụ Trần Thị L đứng chủ sở hữu”.

[6]. Lời thừa nhận trên của các bên đương sự cũng phù hợp với “Đơn xin xác nhận sống chung” đề ngày 19-12-1983 của cụ P và cụ K được Ủy ban nhân dân phường 14 xác nhận, trong đơn có ghi nội dung: Nguyên chúng tôi qua sự đồng ý của gia đình hai bên đã chính thức kết hôn ngày 31-01-1961 và tự do cùng chung sống với nhau tại Nhà số 73/1-B Phạm Văn C, phường 14, Quận X”

[7]. Do đó, có căn cứ để xác định căn nhà số 73/1B Phạm Văn C là tài sản chung của cụ P và cụ K. Cụ L chỉ có công quản lý, kê khai để xin cấp giấy chứng nhận nhà đất. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định căn nhà nêu trên là tài sản chung của cụ P và cụ L là không phù hợp với các chứng cứ khách quan, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.

[8]. Do đó, cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Huỳnh Thiết C và một phần yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Trần Văn Ch, bà Huỳnh Tuyết M, bà Phan Mỹ L2 và Cụ Trần Thị L, sửa bản án sơ thẩm theo hướng sau:

[9]. Căn nhà số 73/1B Phạm Văn C, được xác định: ½ thuộc quyền sở hữu của cụ P và ½ thuộc quyền sở hữu của cụ K.

[10]. Ngày 20/11/2009, cụ Trần Thị K chết, không để lại di chúc, nên ½ căn nhà 73/1B Phạm Văn C là di sản của cụ K sẽ được chia cho các đồng thừa kế sau:

Cụ Huỳnh Tòng P và các con (06 kỷ phần) gồm: ông Trần V, Bà Huỳnh Tú L1, ông Huỳnh Thiết C, chị Huỳnh Tuyết M (ông Huỳnh Thiết Q đã chết năm 2003, nên con của ông Q là chị M được hưởng thừa kế thế vị theo Điều 677 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 652 của Bộ luật Dân sự năm 2015), Cụ Trần Thị L có công sức gìn giữ, quản lý và kê khai đứng tên trên giấy chứng nhận nhà đất nên cũng được hưởng tương đương một kỷ phần thừa kế của cụ P.

Riêng ông Huỳnh Ký T cũng là con của cụ K và cụ P nhưng ông Toàn đã chết năm 2012, không có vợ con nên không được hưởng thừa kế.

[11]. Di sản của cụ P là ½ căn nhà và 1/6 của một kỷ phần thừa kế của cụ K mà cụ P được hưởng thừa kế.

Ngày 10/11/2014, cụ Huỳnh Tòng P chết có để lại Di chúc số: 3447 ngày 04 tháng 7 năm 2014 đã được Văn phòng Công chứng T công chứng, nên ông Trần V và bà Đỗ Thị Thanh T được hưởng di sản của cụ P. Tuy nhiên, Di chúc này do cụ P và cụ L cùng lập để định đoạt căn nhà số 73/1B Phạm Văn C, nhưng cụ L đã thay đổi không để lại tài sản cho ông V và bà T được hưởng thừa kế nữa, do đó nội dung di chúc của cụ L được xem không còn tồn tại nữa. Riêng nội dung còn lại của di chúc cụ P để lại tài sản ½ căn nhà và 1/6 của một kỷ phần thừa kế của cụ K mà cụ P được hưởng thừa kế vẫn có hiệu lực. Do vậy, Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về đề nghị tuyên bố di chúc này bị vô hiệu là có căn cứ.

[12]. Tuy nhiên, tại thời điểm cụ P lập di chúc cho ông V và bà T được hưởng thừa kế thì cụ L là vợ hợp pháp vẫn còn sống, nhưng bị cụ P truất quyền thừa kế của cụ L là trái với Điều 669 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 644 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy, cụ L vẫn được hưởng phần di sản cụ của P để lại là bằng 2/3 suất của một người thừa kế chia theo pháp luật.

*Hàng thừa kế của cụ P có 06 người, gồm: cụ L, các con ông Trần V, Bà Huỳnh Tú L1, ông Huỳnh Thiết C, chị Huỳnh Tuyết M (được hưởng thừa kế thế vị của ông Huỳnh Thiết Q) và ông Trần Văn Ch (con nuôi của cụ P và cụ L).

Ngoài ra Cụ Trần Thị L còn được hưởng tương đương 01 kỷ phần thừa kế do có công sức gìn giữ, kê khai và đứng tên trên giấy chứng nhận nhà đất của cụ P. Vì vậy di sản của ông P là ½ căn nhà và 1/6 của một kỷ phần thừa kế của cụ K mà cụ P được hưởng và được chia 07 phần như sau: Cụ L được hưởng 01 kỷ phần thừa kế và 2/3 của một kỷ phần thừa kế. Ông V và bà T được hưởng 05 kỷ phần thừa kế và 1/3 của 01 kỷ phần thừa kế.

[13]. Như trên đã xác định căn nhà số 73/1B Phạm Văn C thuộc quyền sở hữu của cụ P và cụ K mà không thuộc quyền sở hữu của cụ L, nhưng ngày 10 tháng 02 năm 2015 Văn phòng công chứng Đ đã lập Văn bản khai nhận và thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 001227, quyển số 01TP/VPCC-SCC/HĐGD để cho ông Trần V được nhận toàn bộ căn nhà số 73/1B Phạm Văn C là trái pháp luật nên bị vô hiệu đối với ½ căn nhà số 73/1B Phạm Văn C là tài sản sở hữu của K. Do đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất BX 618337, vào sổ cấp Giấy chứng nhận số CH 25626 do Ủy ban nhân dân Quận X, TP. HCM cấp ngày 20/3/2015 cho ông Trần V cần được tuyên hủy.

[14]. Cụ Trần Thị L không phải là người sở hữu có quyền định đoạt đối với ½ căn nhà số 73/1B Phạm Văn C nên “Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở” số 02160, quyển số 04 ngày 09/4/2015 tại Văn phòng Công chứng Quận X do cụ L ký chuyển nhượng cho ông Trần V và bà Đỗ Thị Thanh T bị vô hiệu. Do đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất BX576853, vào sổ cấp Giấy chứng nhận số CH26062 do Ủy ban nhân dân Quận X cấp ngày 07/5/2015 cho ông Trần V và bà Đỗ Thị Thanh T cũng cần được tuyên hủy. Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu, tại Điều 2 của Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số 02160 ngày 09/4/2015 nêu trên có ghi: “Giá mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nêu tại Điều 1 là: 450.000.000 đồng (bằng chữ: Bốn trăm năm triệu Việt Nam đồng). Phương thức thanh toán: bằng tiền mặt. Bên B thanh toán cho Bên A số tiền nêu trên một lần sau khi ký công chứng. Việc thanh toán số tiền nêu trên tại khoản 1 Điều này do hai bên tự thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Ông V và bà T cho rằng đã thanh toán đủ số tiền trên cho cụ L, nhưng không lập giấy biên nhận vì cho rằng là mẹ con nên không cần thiết lập giấy này. Tuy nhiên, cụ L không thừa nhận việc nhận tiền chuyển nhượng 450.000.000 đồng của ông V và bà T. Ông V và bà T không có chứng cứ chứng minh đã đưa tiền cho cụ L. Do đó việc giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu để sau này khi ông V và bà T có chứng cứ thì sẽ được quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác.

[15]. Do hợp đồng mua bán nhà ở nêu trên bị vô hiệu nên Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số 00034848 13 do giữa bà Đỗ Thị Thanh T ký tặng cho ông Trần V được Văn phòng công chứng Đầm Sen ký công chứng ngày 20/10/2016 là trái pháp luật. Tuy nhiên, các đương sự trong vụ án này không có yêu cầu giải quyết đối với Hợp đồng tặng cho này mà chỉ có yêu cầu hủy phần cập nhật biến động ngày 06/7/1017 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Quận X, TP. HCM cập nhật cho ông V một mình đứng tên trên trang 3 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH26062 ngày 07/5/2015. Do đó, Hợp đồng tặng cho nêu trên sau này nếu có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

[16]. Căn nhà 73/1B Phạm Văn C, hiện nay vợ chồng ông V và bà T buôn bán ở tầng trệt và ở tầng II, ông Ch và chị M đang ở tầng I, ông C đang ở tầng III, tất cả không có nơi ở nào khác. Do căn nhà số 73/1B Phạm Văn C không thể chia bằng hiện vật, nguyên đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đề nghị Tòa án giao cho Cơ quan thi hành án dân sự bán đấu giá để chia bằng giá trị tại thời điểm bán đấu giá, là có căn cứ phù hợp với khoản 2 Điều 660 của Bộ luật Dân sự năm 2015, nên giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự bán đấu giá để chia cho các đương sự theo tỷ lệ nêu trên.

[17]. Án phí dân sự sơ thẩm:

– Án phí có giá ngạch: Căn cứ vào Chứng thư thẩm định giá ngày 26/01/2021 của Công ty cổ phần định giá và đầu tư kinh doanh bất động sản Thịnh Vượng (Bút lục 419) thì căn nhà số 73/1B Phạm Văn C có giá trị là 3.099.056.000đ. Căn cứ vào tỷ lệ được hưởng di sản nêu trên án phí thừa kế được tính cụ thể như sau:

Tổng di sản của cụ P và cụ K có giá trị là 3.099.056.000đ : 2 cụ = 1.549.528.000đ/cụ.

Phần di sản của cụ K giá trị 1.549.528.000đ : 6 phần = 258.254.666đ/kỷ phần thừa kế. Trong đó có: cụ Huỳnh Tòng P, ông Trần V, Bà Huỳnh Tú L1, ông Huỳnh Thiết C, chị Huỳnh Tuyết M (con ông Q) và Cụ Trần Thị L (có công sức gìn giữ, kê khai và đứng tên trên giấy chứng nhận nhà đất). Nên án phí phải chịu như sau: bị đơn ông Trần V được hưởng 01 kỷ phần nên ông V phải chịu thêm án phí là 12.912.000đ; nguyên đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Thiết C, Bà Huỳnh Tú L1, chị Huỳnh Tuyết M mỗi người được hưởng 01 kỷ phần nên phải chịu 12.912.000đ án phí. Riêng cụ L là người cao tuổi và có đơn xin miễn nên cụ L không phải chịu án phí.

Phần di sản của cụ P giá trị 1.549.528.000đ : 7 kỷ phần = 221.361.000/kỷ phần thừa kế. Trong đó ông V và bà T được hưởng là 05 kỷ phần thừa kế và 1/3 kỷ phần thừa kế tổng là 1.180.592.000đ. Nên án phí được tính như sau 36.000.000đ + 11.417.760đ (3% của phần giá trị vượt quá 800.000.00đ) = 47.417.760đ án phí ông V và bà T phải chịu.

Cụ L được hưởng 01 kỷ phần thừa kế và 2/3 của một kỷ phần thừa kế, nhưng do cụ L là người cao tuổi và có đơn xin miễn nên cụ L không phải chịu án phí.

– Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch:

Do yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Thiết C về việc yêu cầu tuyên bố vô hiệu Di chúc số 3447 ngày 04 tháng 7 năm 2014 tại Văn phòng Công chứng T không được chấp nhận nên ông C phải chịu 300.000đ.

Do yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Thiết C về việc yêu cầu tuyên bố vô hiệu Văn bản khai nhận và thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 001227, ngày 10 tháng 02 năm 2015 tại Văn phòng công chứng Đ được chấp nhận một phần nên ông V và bà T phải chịu 300.000đ.

Do yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Thiết C về tuyên bố hủy Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số 02160, quyển số 04 ngày 09/4/2015 tại Văn phòng Công chứng Quận X (nay là Văn phòng Công chứng N) được chấp nhận tuyên vô hiệu nên ông V và bà T phải chịu 300.000đ.

[18]. Chi phí tố tụng sơ thẩm: Chi phí thẩm định giá là 9.500.000đ. Chi phí này nguyên đơn và bị đơn tự nguyện chịu mỗi bên ½. Do nguyên đơn đã nộp nên bị đơn ông V và bà T phải hoàn trả cho ông C số tiền 4.750.000đ.

[19]. Án phí dân sự phúc thẩm:

Do kháng cáo của nguyên đơn ông Huỳnh Thiết C và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Trần Văn Ch, bà Huỳnh Tuyết M, bà Phan Mỹ L2 và Cụ Trần Thị L được chấp nhận một phần nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

[20]. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các đương sự, sửa bản án sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận.

[Nguồn: Quyết định GĐT số 866/2023/DS-PT ngày 28/12/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số: 866/2023/DS-PT

———–

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan