09. Bản án tranh chấp tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; Yêu cầu hủy HĐ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Hợp đồng đặt cọc, Hợp đồng thuê đất bị sửa vì công nhận hôn nhân thực tế không đúng
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa nghe các bên đương sự và Luật sư trình bày, nghe VKS phát biểu quan điểm, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của phía ông Q, ông H, ông Đ1 làm trong hạn luật định, nên thủ tục kháng cáo hợp lệ.
[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo:
[2.1] Ông Q sinh năm 1952, bà M sinh năm 1955, theo bà M thì bà và ông Q chung sống với nhau từ năm 1987, kết hôn ngày 01/01/1987 ông bà có hai con chung là Nguyễn Thị Cẩm H, Nguyễn Tấn Đ. Chị Nguyễn Thị Cẩm H theo giấy khai sinh ghi năm 1990, và anh Nguyễn Tấn Đ theo giấy khai sinh ghi năm 1991. Trước đó, ông Q có một người vợ tên là Cao Tuyết S chết vào năm 1986, ông Q và bà S có ba người con chung là ông Nguyễn Văn H sinh năm 1978, chị Nguyễn Thúy Ph sinh năm 1980, và anh Nguyễn Tấn Đ1 sinh năm 1982. Theo ông Q thì bà M với ông chung sống không có đăng ký kết hôn từ năm 1989, chứ không phải năm 1987 vì theo ông Q, bà S chết từ cuối năm 1986 thì không thể có chuyện làm đám cưới vào ngày 01/01/1987 được. Đến năm 2013 thì giữa ông Q và bà M đã không còn sống chung và đã ly thân với nhau. Diện tích đất mà ông Q có là 44.130m², ông cho rằng ông đã sử dụng từ năm 1968, nguồn gốc là của cha mẹ ông Q để lại cho ông và ông đã được cấp Giấy chứng nhận QSD đất từ năm 1991. Sau khi ông Q ly thân với bà M, thì ông Q có chia cho ông H (là con riêng của ông với bà S) diện tích 16.671m², trong đó được cấp Giấy chứng nhận QSD đất diện tích 8.784m², phần này có mồ mã của gia tộc và ông H cũng xây dựng cho ông Q một căn nhà để ông Q ở trên phần đất này, những phần còn lại chưa được cấp Giấy chứng nhận, vì đây là đất bảo lưu ven sông thuộc quản lý của nhà nước.
Ngoài ra, ông Q còn chia cho những người con khác gồm: Chia cho bà Ph (là con riêng của ông với bà S) diện tích 10m x 50m đất thổ cư; Chia và chuyển nhượng cho ông Đ1 (là con riêng của ông với bà S) diện tích khoảng hơn 10.000m²; Chia cho bà H (là con riêng của ông với M) diện tích 10m x 50m đất thổ cư; Chia cho ông Đ (là con riêng của ông với bà M) diện tích khoảng hơn 10.000m², phần này có căn nhà trên đất mà trước đây ông Q sống chung với bà M, thực chất trong phần này có 5.000m2 ông chia cho bà M, nhưng bà M để cho ông Đ đứng tên.
Hiện nay, ông Q về ở chung với ông H do ông H xây dựng cho ông Q một căn nhà trên phần đất ông Q đã cho ông H, theo Giấy chứng nhận QSD đất thì phần này có diện tích 8.784m², nhưng đo đạt thực tế là 8.555,9m².
Tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, bà M chỉ yêu cầu tranh chấp đòi chia diện tích 2.000m² trong tổng số 8.555,9m² mà ông H đang sử dụng và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận đối phần này. Ngoài ra, bà còn yêu cầu chia đối với phần diện tích 419m² mà ông Đ1 và vợ là bà V đang sử dụng. Phần đất này có chiều dài 50m, chiều ngang phía trước 9,24m, và ngang phía sau là 8,39m và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận đối với phần này.
Về phía ông Q, ông H, ông Đ1 không đồng ý với yêu cầu của phía bà M. Do không thống nhất về các yêu cầu tranh chấp, nên các bên đương sự đã phát sinh tranh chấp.
[2.2] Xét về quan hệ sống chung giữa ông Q và bà M:
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và Nghị quyết số 35 năm 2000 của Quốc hội, tại Mục 3 hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình, quy định như sau: “Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn, thì được khuyến khích đăng ký kết hôn. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án giải quyết theo quy định ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”.
“Trường hợp Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ đủ điều kiện kết hôn theo luật định thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003. Trong thời hạn này mà không đăng ký kết hôn nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng”.
Đối chiếu với trường hợp của ông Q, bà M thì thấy, ông Q có vợ là bà S chết vào cuối năm 1986, sau đó ông sống chung với bà M nhưng không đăng ký kết hôn và đã ly thân vào năm 2013. Bà M khai có làm đám cưới với ông Q vào ngày 01/01/1987, còn ông Q thì khai chung sống từ năm 1989 có con là bà H sinh năm 1990, ông Đ sinh năm 1991.
Qua lời khai của các bên cho thấy, trong thời gian cuối năm 1986 bà S vợ ông Q chết, thì ngày 01/01/1987 khó có thể có việc tổ chức lễ cưới, theo phong tục, tập quán ở Nam Bộ khi người vợ mới chết trong hơn một tháng việc tổ chức hôn lễ cho người chồng là không có trong thực tế.
Mặt khác, bà M khai rằng bà làm đám cưới với ông Q vào ngày 01/01/1987 nhưng bà cũng không có tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh cho việc này.
Ngoài ra, các bên còn đưa ra các tờ xác nhận của bà G1 về việc biết ngày tổ chức lễ cưới, nhưng lời khai của bà G1 lại bất nhất có nhiều lời khai khác nhau, nên không có cơ sở thuyết phục.
Thực tế, thì bà H con chung của ông Q và bà M sinh năm 1990 nên quan hệ sống chung giữa ông Q và bà M được xác định là từ năm 1989 như ông Q trình bày là có cơ sở chấp nhận.
Do ông Q, bà M sống chung từ năm 1989 đến nay không đăng ký kết hôn, nên thuộc trường hợp không công nhận vợ chồng, được pháp luật quy định tại Mục 3, Nghị quyết 35 năm 2000 của Quốc hội như đã viện dẫn.
Toà án cấp sơ thẩm đã công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Q với bà M là chưa đúng với quy định pháp luật, và chưa đúng với thực tế sống chung giữa ông Q với bà M như đã phân tích như trên.
[2.3] Xét yêu cầu của bà M tranh chấp đòi chia tài sản chung với ông Q diện tích đất 2.000m², trong tổng số 8.784m² đo thực tế là 8.555,9m²:
Phần đất này, hiện trên đất có nhà ông H đã xây dựng để ở và có mồ mã của gia tộc diện tích khoảng hơn 1.000m². Ngoài ra, ông H còn xây cất cho ông Q một căn nhà để ông Q ở trên đất này.
Nguồn gốc đất là của cha mẹ ông Q chết để lại cho ông Q. Theo Giấy chứng nhận QSD đất đã được cấp cho ông Q, ông Q có một người vợ là bà S chết năm 1986, sau đó chung sống với bà M có hai người con là bà H sinh năm 1990, và ông Đ sinh năm 1991 không có đăng ký kết hôn. Dù chung sống không đăng ký kết hôn nhưng bà M cũng có công sức gìn giữ, bảo quản và tôn tạo trong một khoảng thời gian. Bà M chỉ tranh chấp diện tích 2.000m2 nên có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu của bà M về việc tranh chấp này. Cụ thể trong phần tranh chấp này, ông Q được 50%, bà S là vợ trước ông Q được 25% và bà M được 25% là phù hợp.
Xét thấy, trên đất tranh chấp diện tích 2.000m², ông H là người đang sử dụng có nhà cửa, mồ mã gia tộc, các bên thỏa thuận và đồng ý với giá đã định tại Tòa án cấp sơ thẩm là 300.000đồng/m². Phần của bà M được chia 25% diện tích đất là 500m² x 300.000đồng = 150.000.000đồng, ông H đồng ý trả phần giá trị này cho bà M. Do đó có cơ sở sửa bản án sơ thẩm về phần này.
[2.4] Xét đối với yêu cầu của bà M tranh chấp diện tích 419m² mà ông Q đã cho và chuyển nhượng cho ông Đ1:
Phần đất này trước đây ông Q đã thế chấp cho ông L và ông Kh vào năm 2014 để vay tiền trị bệnh. Sau đó, ông Đ1 đứng ra trả nợ vay thay cho ông Q, nên ông Q đã chuyển nhượng lại cho ông Đ1 với giá 500.000.000đồng để nhằm chuộc lại đất. Các giao dịch này đã được ông L, ông Kh xác nhận ông Đ1 trả đủ số tiền nợ vay, phía ông Đ1 cũng đã nhận phần đất nêu trên, hiện nay ông Đ1 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên không thuộc tài sản chung của ông Q và bà M. Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của bà M về phần này là chưa đúng với quy định pháp luật, và chưa đúng với thực tế quan hệ tạo lập tài sản chung, nên có cơ sở sửa án về phần này.
[3] Án phí dân sự sơ thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu khởi kiện, nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo luật định, bà M là người cao tuổi nên được miễn án phí DSST.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Do chấp nhận yêu cầu kháng cáo nên phía người kháng cáo không phải chịu án phí DSPT.
[Nguồn: Bản án phúc thẩm số 09/2022/HNGĐ-PT Ngày 25/5/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn Bản án: Bản án phúc thẩm số 09/2022/HNGĐ-PT