14. Bản án bị sửa vì Tòa tuyên bị cáo chịu 2 hình phạt cho một tội danh Điều 341 Bộ luật hình sự
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Thúy X thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm.
Bị cáo Phạm Thúy X là nhân viên của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, mặc dù bị cáo còn nợ tiền nhiều người không có khả năng trả nhưng vì mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác để có tiền tiêu xài cá nhân bị cáo đã tiếp cận, cố ý dùng thủ đoạn gian dối và lợi dụng sự tin tưởng của các bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra đưa ra thông tin gian dối nhằm chứng tỏ mình là người có khả năng xin được việc cho chị Vi Thị Khánh H4 để người có nhu cầu xin việc làm tin tưởng giao tiền cho bị cáo. Vì vậy trong khoảng thời gian từ tháng 5-2018 đến ngày 22-01-2019, bị cáo đã thực hiện 11 vụ lừa đảo với tổng số tiền là tổng cộng: 8.890.000.000 đồng, X đã trả 1.328.132.351 đồng, còn lại chiếm đoạt: 7.561.867.649 đồng, trong đó: chị Nguyễn Thị M 567.000.000 đồng, bà Đoàn Thị L 400.000.000 đồng, chị Tạ Quỳnh N3 831.500.000 đồng, chị Đoàn Thị Thanh T1 2.076.350.000 đồng, chị Nguyễn Thị Hương L1 710.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị T3 684.600.000 đồng, chị Võ Thị Thanh N4 640.800.000 đồng, chị Nguyễn Thị P1 300.000.000 đồng, chị Vi Thị Khánh H4 472.000.000 đồng, anh Hoàng Anh T4 500.000.000 đồng và Ngân hàng V1 379.617.649 đồng.
Mặt khác để có cơ sở tin cậy bị hại tin tưởng giao tiền, bị cáo đã làm giả 08 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 01 con dấu giả Công ty M2 tỉnh Đắk Nông; lập 17 hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông vay tiền; 01 giấy vay tiền chữ ký họ tên ông Trần Trung K1; 03 bảng xác nhận thông tin nhân sự và thu nhập của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông để làm hồ sơ vay tiền của Ngân hàng V1 nhằm sử dụng vào mục đích chiếm đoạt số tiền 7.561.867.649 đồng.
[2] Xét đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Thúy X, ý kiến của người bào chữa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[2.1] Về tội danh: Bị cáo đã cung cấp thông tin, địa chỉ, điểm hẹn cho các đối tượng trên mạng xã hội để nhận các giấy tờ giả và sử dụng 08 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 01 con dấu giả Công ty M2 tỉnh Đắk Nông; lập 17 hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông vay tiền; 01 giấy vay tiền chữ ký họ tên ông Trần Trung K1; 03 bảng xác nhận thông tin nhân sự và thu nhập của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông để làm hồ sơ vay tiền của Ngân hàng V1 nhằm sử dụng vào mục đích chiếm đoạt.
Bị cáo đã có hành vi làm giả các giấy tờ nêu trên để sử dụng trái pháp luật để chiếm đoạt tài sản nên đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phạm Thúy X tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Điều 341 Bộ luật Hình sự là tội ghép. Hành vi của bị cáo X xâm phạm cùng một khách thể trật tự quản lý hành chính và một chủ thể thực hiện, với mục đích để chiếm đoạt tài sản. Hành vi làm giả các giấy tờ tài liệu là tiền để bị cáo sử dụng các tài liệu đó để chiếm đoạt tài sản. Tòa án cấp sơ thẩm tách ra xét xử buộc bị cáo hai tội của một điều luật với hai mức hình phạt là chưa phù hợp. Hội đồng xét xử chỉ buộc bị cáo chịu một mức hình phạt của Điều luật 341 Bộ luật Hình sự.
Người bào chữa cho bị cáo yêu cầu xác định số tiền 3.810.000.000 đồng là giao dịch dân sự là không có cơ sở vì trước khi lấy các khoản tiền này, X đang trong tình trạng nợ nhiều tiền từ 06 – 07 tỷ đồng, không có khả năng trả nợ nhưng vẫn đưa ra thông tin gian dối là vay tiền cho Công ty kinh doanh sim điện thoại để làm cho người bị hại tin tưởng đưa tiền cho X rồi X không trả.
[2.2] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng tới tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ đầy đủ cho bị cáo.
Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự khai ra hành vi phạm tội đối với các bị hại bà Nguyễn Thị P1 và anh Hoàng Anh T4; ngày 10-9-2020 bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bà Nguyễn Thị P1 số tiền 20.000.000 đồng; bị hại bà P1có đơn bãi nại và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo có bổ sung các giấy tờ sau: Ba bị cáo là Phạm Văn T được Chủ tịch nước tặng Huy chương vì chiến sĩ vẻ vang hạng nhất ngày 30/6/2007; Huy chương vì an ninh Tổ Quốc ngày 19/4/20210, Huy chương vì chiến sĩ vẻ vang hạng nhì ngày 10/3/2014 và Huy chương vì chiến sĩ vẻ vang hạng ba ngày 10/3/2014. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo.
Bị cáo làm giả các tài liệu, giấy tờ và sử dụng các giấy tờ giả nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản trên của các bị hại. Khi xem xét hình phạt cũng cần cân nhắc mức án cho phù hợp. Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự với mức án 17 năm tù khi bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và tại cấp phúc thẩm cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ tổng cộng là 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có phần nghiêm do đó Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo giảm hình phạt cho bị cáo với tội này và chỉ buộc bị cáo chịu một mức hình phạt của Điều luật 341 Bộ luật Hình sự.
[2.3] Về trách nhiệm dân sự: Số tiền bị cáo chiếm đoạt của các bị hại chỉ tính số tiền gốc, không có lãi như bị cáo trình bày. Số tiền bị cáo vay của V1 Bank, đối với khoản vay 3 hồ sơ 250.000.000 đồng do bị cáo X đứng tên, bị cáo X trả cho Ngân hàng được 9.109.132 đồng. Đối với 02 hồ sơ vay 150.000.000 đồng do Y đứng tên, bị cáo X trả được 11.273.219 đồng, tổng cộng bị cáo X trả được 20.382.351 đồng, còn lại 379.617.649 đồng. Tất cả số tiền này bị cáo X sử dụng. Y không có bị truy tố. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo chiếm đoạt của Ngân hàng V1 số tiền 379.617.649 đồng thì bị cáo X phải có trách nhiệm trả số tiền này cho Ngân hàng nên việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc Y phải có trách nhiệm trả cho Ngân hàng số tiền 138.726.781 đồng và X phải trả số tiền 240.890.868 đồng là không chính xác. Kháng cáo của bị cáo X về phần này là có cơ sở chấp nhận.
Đối với hành vi của Y, Y có hành vi giúp sức cho X tạo lập hồ sơ vay vốn của Ngân hàng . Cấp sơ thẩm không xem xét là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm nhưng để ổn định bản án, cần kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền tiếp tục làm rõ hành vi của Y và xử lý theo quy định.
[2.4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đề nghị phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Ý kiến của luật sư bào chữa phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[3] Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Phạm Thúy X phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 115.561.867đ (Một trăm mười lăm triệu năm trăm sáu mươi mốt nghìn tám trăm sáu mươi bảy đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[4] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các nội dung khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[Nguồn: Bản án phúc thẩm số 274/2022/HS-PT Ngày 12/5/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn Bản án: Bản án phúc thẩm số 274/2022/DS-PT