11. Bản án bị sửa vì không áp dụng án lệ 08 về vấn đề lãi suất trong Hợp đồng tín dụng
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án; căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Ngày 24/5/2019, AK khởi kiện vụ án yêu cầu Tòa án buộc anh Nguyễn Văn T trả nợ theo hợp đồng tín dụng được hai bên K kết và thực hiện. Do đó, tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn trong vụ án là tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo thông báo của cục Xuất nhập cảnh – Bộ Công an thì bị đơn trong vụ án là anh Nguyễn Văn T đã xuất cảnh ngày 26/11/2018, chưa có thông tin về nước. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh P thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
[1.2] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xác minh tại nơi cư trú của anh Nguyễn Văn T, kết quả cho thấy anh T vẫn thường xuyên liên lạc với bà Lê Thị Th (mẹ anh T). Bà Th khai anh T đang ở Đài Loan nhưng bà Th không cung cấp địa chỉ cụ thể với lý do không biết địa chỉ (vì anh T đã bỏ trốn ra ngoài), bà Th nhất trí nhận các văn bản tố tụng và cam đoan có trách nhiệm thông báo lại cho anh T. Do đó, đây là trường hợp được coi như anh T cố tình dấu địa chỉ. Tòa án nhân dân tỉnh P tống đạt các văn bản tố tụng cho anh T thông qua bà Th, đồng thời tiến hành xét xử vắng mặt anh T là đúng quy định về tố tụng.
[1.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn là anh Nguyễn Văn T cố tình dấu địa chỉ nên Tòa án không triệu tập; những người có quyền L, nghĩa vụ liên quan gồm bà Lê Thị Th và các chị Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị H TA, Nguyễn Thị Kim N, Nguyễn Thị L vắng mặt và đã có đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên theo quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.4] Ông Nguyễn Văn Tính chết năm 2013, trước thời điểm Ngân hàng khởi kiện vụ án, vì vậy các chị Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị H TA, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Kim N, Nguyễn Thị L là con của ông Tính, bà Th sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền, L nghĩa vụ liên quan. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Th cùng toàn bộ các con ông Tính, bà Th bao gồm cả anh T (là bị đơn trong vụ án), anh Nguyễn Văn Tình (chết năm 2008) và các chị nêu trên tham gia tố tụng với tư cách người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Tính trong trường hợp này là xác định sai tư cách tham gia tố tụng của đương sự. Do đó, Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm về nội dung này như phần đầu của bản án phúc thẩm đã thể hiện.
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành xác minh chính xác địa chỉ của các chị Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị H TA, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Kim N, Nguyễn Thị L để lấy lời khai và triệu tập họ tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa là vi phạm thủ tục tố tụng (các văn bản tố tụng đều được tống đạt qua bà Th nhưng đều không có phản hồi). Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm, khắc phục thiếu sót nêu trên, theo sự ủy thác tư pháp của Tòa án cấp phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành lấy được lời khai của các chị Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị H TA, Nguyễn Thị Kim N, Nguyễn Thị L (riêng chị Nguyễn Thị H đi lao động tại Đài Loan, không rõ địa chỉ nên không lấy được lời khai). Các chị C, TA, N, L đều xác nhận đã nhận được bản án sơ thẩm và không có ý kiến gì (không kháng cáo bản án sơ thẩm).
Xét thấy, các vi phạm về tố tụng nêu trên không làm ảnh hưởng đến bản chất, nội dung vụ án và đã được khắc phục. Do đó không cần thiết phải hủy án sơ thẩm vì các lý do trên. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm về những sai sót này.
[2] Về nội dung:
[2.1] AK – Chi nhánh Gia Cẩm, P – Phòng giao dịch D K kết Hợp đồng tín dụng số 2707LAV200800492 ngày 31/10/2007 (thời hạn vay 60 tháng) và Hợp đồng tín dụng số 2707LAV200800884 ngày 18/7/2008 (thời hạn vay là 36 tháng) cho anh Nguyễn Văn T vay tổng số tiền là 1.320.000.000 đồng để trả tiền mua sà lan máy và khắc phục sà lan sau khi bị chìm đắm.
Để đảm bảo cho khoản vay của anh T, vợ cH ông Nguyễn Văn Tính và bà Lê Thị Th đã K kết Hợp đồng thế chấp số 182/02/2007 ngày 26/10/2007 để thế chấp cho Ngân hàng tài sản là nhà xây cấp 4 và công trình phụ trợ kèm theo gắn liền trên đất, diện tích đất 171,1m2 thuộc thửa số 05, tờ bản đồ số 03 tại địa chỉ phố Phong Châu, phường Bạch Hạc, thành phố V, tỉnh P đã được UBND thành phố V cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 257468 ngày 27/01/2006 mang tên ông Nguyễn Văn Tính và bà Lê Thị Th; phạm vi bảo đảm: 200.000.000 đồng. Hợp đồng thế chấp được đăng K giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng K quyền sử dụng đất thành phố V, tỉnh P ngày 30/10/2007; về hình thức, nội dung của hợp đồng đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 343 BLDS năm 2005, điểm c khoản 1 Điều 10 và điểm a khoản 1 Điều 12, khoản 4 Điều 72 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Điều 31 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ nên có hiệu lực pháp luật.
Thực hiện hợp đồng tín dụng, anh T đã trả nợ được cho AK số tiền gốc là 771.700.000 đồng (bán Sà lan đã thế chấp để trả nợ). Năm 2018, anh T xuất cảnh ra nước ngoài (Đài Loan). Theo tài liệu do Ngân hàng xuất trình thì tính đến ngày 27/12/2019 anh T còn nợ Ngân hàng nợ gốc là 548.300.000 đồng, nợ lãi là 1.157.312.417 đồng, tổng cộng là 1.705.612.417 đồng (Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của AK chỉ yêu cầu Tòa án tuyên anh T phải trả nợ lãi đến ngày 27/12/2019 mà không yêu cầu trả nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm). Do đó, yêu cầu khởi kiện của AK về việc buộc anh T trả khoản nợ nêu trên, đồng thời nếu anh T không trả được nợ thì Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan thi hành án xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật là hoàn toàn hợp pháp nên được chấp nhận.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc anh Nguyễn Văn T, bà Lê Thị Th và các chị Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị H TA, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Kim N, Nguyễn Thị L phải có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng khoản tiền vay theo các hợp đồng tín dụng, đồng thời buộc anh T và bà Lê Thị Th có nghĩa vụ liên đới nộp khoản tiền 63.000.000 đồng án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm là không đúng pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và L ích hợp pháp của bà Lê Thị Th và các chị Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị H TA, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Kim N, Nguyễn Thị L.
[2.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện của AK xác định sau khi xét xử sơ thẩm, bà Lê Thị Th đã tự nguyện thực hiện xong nghĩa vụ bảo đảm theo Hợp đồng thế chấp số 182/02/2007 ngày 26/10/2007 đã K kết với Ngân hàng, cụ thể bà Th thay mặt anh Nguyễn Văn T trả được số nợ gốc 200.000.000 đồng và số nợ lãi là 79.140.000 đồng (theo 02 Chứng từ giao dịch ngày 17/05/2021 – Số hóa đơn: 05170046000055 và 05170046000056); AK đã làm thủ tục giải chấp tài sản bảo đảm cho bà Th. Vì vậy, AK chỉ yêu cầu Tòa án buộc anh Nguyễn Văn T có nghĩa vụ trả AK số tiền còn lại, gồm nợ gốc 348.300.000 đồng, nợ lãi 1.078.172.417 đồng, đồng thời AK không yêu cầu xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ.
Việc thực hiện thỏa thuận nêu trên của các bên đương sự là trên cơ sở tự nguyện và hợp pháp nên được Hội đồng xét xử ghi nhận. Như vậy, anh Nguyễn Văn T có nghĩa vụ trả AK số tiền còn lại, gồm nợ gốc 348.300.000 đồng, nợ lãi 1.078.172.417 đồng. Ngoài ra, anh Nguyễn Văn T còn phải nộp án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Về vấn đề miễn, giảm nợ lãi của anh Nguyễn Văn T được thực hiện theo thỏa thuận giữa AK với anh T. Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[2.3] Căn cứ Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm quyết định: “Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì phải chịu theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015” là không đúng nên Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm về nội dung này.
[Nguồn: Bản án phúc thẩm số 09/2022/KDTM-PT Ngày 11/5/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn Bản án: Bản án phúc thẩm số 09/2022/KDTM-PT