- Bản án bị hủy vì không thẩm định tài sản và không tính công sức quản lý tôn tạo tài sản là nhà đất
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Nhà đất số 534C Lê Văn S, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt là nhà đất số 534C Lê Văn S) các bên đang tranh chấp có nguồn gốc của cụ Lưu D và cụ Phạm Thị uý. Ngày 01/10/1975, cụ Dụ, cụ Quý lập “Giấy cho đứt bất động sản cho con gái” là bà Lưu Kim Y nhà đất nêu trên, được Ủy ban nhân dân Cách mạng phường Trần Quang D xác nhận ngày 03/10/1975, Ủy ban nhân dân Cách mạng Quận D xác nhận ngày 7/10/1975, nộp trước bạ ngày 20/4/1976.
[2] Nguyên đơn cho rằng năm 1980, được Nhà nước cho phép đưa cha mẹ sang Pháp chữa bệnh, trước khi đi đã giao toàn bộ giấy tờ chính nhà đất nêu trên cho bà Nguyễn Thị M giữ. Năm 1996, khi bệnh tình cha mẹ ổn định, bà trở về Việt Nam thì thấy gia đình bị đơn đang sinh sống trong căn nhà này nên yêu cầu trả lại để bà quản lý, sử dụng. Bị đơn cho rằng căn nhà nêu trên do gia đình bị đơn nhận chuyển nhượng từ bà Nguyễn Hoàng Y1 vào năm 1993 (bà Nguyễn Hoàng Y1 nhận chuyển nhượng của bà Phạm Thị T2 vào năm 1990), có sự đồng ý của bà T2 (bà T2 được gia đình nguyên đơn tặng cho nhà đất nêu trên với toàn bộ giấy tờ gốc) và xác nhận của Ủy ban nhân dân Phường C, Quận D.
[3] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bao gồm: Chứng thư đoạn mãi bất động sản ngày 17/7/1969, trước bạ ngày 21/7/1969; Tờ lược giải sổ điền thổ và Bằng khoán số 500 ngày 25/7/1969; Trích sao sổ trước bạ nhà đất, quyển 1B, tờ 69, số 474 (trước bạ ngày 20/4/1976); Tờ khai về thuế thổ trạch đất và nhà năm 1973; Giấy cho đứt bất động sản cho con gái ngày 01/10/1975 thì chỉ có cơ sở xác định vợ chồng cụ D, cụ Q có ngôi nhà diện tích 30m2 (xây hai tầng) trên diện tích đất khuôn viên căn nhà là 49m2. Như vậy, nguyên đơn khởi kiện nhưng chỉ có căn cứ chứng minh quyền sử dụng hợp pháp đối với nhà đất có diện tích 49m2 theo giấy tờ gốc về nhà đất nêu trên.
[4] Tuy nhiên, theo tờ khai nhà đất của ông Lê Đình Đ (bị đơn) đăng ký vào năm 1999, Chứng thư thẩm định giá ngày 24/3/2014 của Công ty cổ phần giám định và thẩm định EXIMVAS thì diện tích nhà đất tranh chấp có mặt bằng xây dựng 82,3m2, xây 4 tầng, tổng diện tích xây dựng khoảng 300m2. Như vậy, so với thời điểm năm 1975 thì nhà đất số 534C Lê Văn S có sự thay đổi, tăng thêm 33,3m2 về diện tích đất cũng như hiện trạng kiến trúc và diện tích nhà qua quá trình sử dụng.
[5] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ về diện tích nhà đất số 534C Lê Văn S; đồng thời, cũng chưa thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ cần thiết từ cơ quan quản lý nhà nước về nhà đất ở địa phương cũng như lời khai của các bên đương sự, người làm chứng (nếu có) theo quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự để làm rõ diện tích nhà đất tăng thêm hiện nay so với diện tích nhà đất trước đây mà nguyên đơn được cụ D, cụ Q tặng cho thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ai nhưng đã buộc bị đơn giao lại toàn bộ nhà đất nêu trên cho nguyên đơn là không đúng. Mặt khác, nguyên đơn đi nước ngoài không quản lý, sử dụng nhà đất từ năm 1980, trong khi đó gia đình bị đơn quản lý, sử dụng từ năm 1993 đến nay là gần 30 năm nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không tính công sức giữ gìn, quản lý, bảo quản tài sản làm tăng giá trị nhà đất của gia đình bị đơn là giải quyết vụ án không công bằng, không triệt để.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 11/2022/DS-GĐT Ngày 27/4/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn QĐ: QĐ GĐT số 11/2022/DS-GĐT