15. Bản án bị hủy do xác định không đúng bị hại trong dây hụi và trách nhiệm liên đới quan hệ hình sự với dân sự
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, một số người bị hại có kháng cáo, đã được Tòa án cấp phúc thẩm triệu tập nhưng vắng mặt. Xét, Tòa án cấp phúc thẩm đã triệu tập đúng quy định pháp luật, nội dung kháng cáo của những người bị hại vắng mặt trùng với nội dung kháng cáo của những bị hại còn lại. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về nội dung vụ án:
Vào khoảng năm 2006, Phan Hữu H bắt đầu mở hụi, làm chủ các dây hụi. Để thực hiện việc làm chủ hụi, H có làm đơn xin tổ chức hùn vốn tín dụng nông dân có xác nhận của Trưởng ấp T, xã Đ, huyện C. Hình thức tham gia hụi, mỗi tháng khui một lần, mỗi kỳ khui hụi các hụi viên phải đến nhà H bỏ thăm, hụi viên bỏ thăm cao nhất sẽ được hốt hụi, từ 03 đến 05 ngày sau khi bỏ hụi H sẽ gom và giao tiền cho hụi viên được hốt hụi và H được hưởng 50% tiền hoa hồng của giá trị chân hụi đã hốt.
Thời gian đầu, H gom hụi và giao hụi đầy đủ nên được tạo được lòng tin của mọi người. Tuy nhiên, từ tháng 02 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014. H lợi dụng những hụi viên không đi bỏ thăm để lấy tên hụi viên và tự ý bỏ thăm hốt hụi và chiếm đoạt tiền của hụi viên ở 05/08 dây hụi để trả nợ và chi xài cá nhân. Đến ngày 30 tháng 12 năm 2014 H tuyên bố bể hụi thì còn 8 dây hụi chưa mãn liên quan đến 79 hụi viên.
Với hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã tuyên xử bị cáo Phan Hữu H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015.
[3] Nhận định của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm:
[3.1] Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự thì lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Theo đó, giá trị của tài sản bị chiếm đoạt là căn cứ để định khung hình phạt và xem xét lượng hình đối với người phạm tội. Trong vụ án này, cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm quy kết bị cáo đã chiếm đoạt số tiền 828.617.000 đồng từ hụi viên (tuy nhiên số lượng hụi viên này ít hơn 50 người được xác định là bị hại). Bên cạnh đó, phần trách nhiệm dân sự của bản án sơ thẩm tuyên buộc bị cáo phải có nghĩa vụ hoàn trả cho 50 người bị hại với tổng số tiền là 3.584.840.000 đồng (lớn hơn rất nhiều số tiền mà bị cáo bị quy kết). Việc xác định tất cả những người tham gia chơi hụi là người bị hại và giải quyết yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự là xác định sai người tham gia tố tụng.
Dẫn chứng cụ thể:
Dây hụi thứ nhất: Mở ngày 18.02.2013 (nhằm ngày 09.01.2013 âm lịch), loại hụi 5.000.000 đồng, gồm có 26 chân với 15 hụi viên tham gia, H chiếm đoạt 88.750.000đồng tại kỳ 4 (khui ngày 18.5.2013).
Dây hụi đã khui đủ 26 kỳ, các hụi viên tham gia dây hụi này đều đã được khui hụi trừ ông Lê Trường S1. Vì vậy, bị hại được xác định trong dây hụi này chỉ là hụi viên chưa được hốt hụido hành vi hốt khống của bị cáo H tại kỳ thứ 4 là hụi viên ông Lê Trường S1. Các hụi viên khác tham gia dây hụi này đã được khui hụi thì không được xác định là bị hại trong vụ án.
Việc hụi viên Phan Văn T2, Tạ Thị D13 đã được khui hụi nhưng chưa được bị cáo giao đủ tiền chỉ là thỏa thuận dân sự giữa bị cáo H và các hụi viên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo không chiếm đoạt đối với số tiền của hụi viên Phan Văn T2, Tạ Thị D13 nhưng tuyên buộc bị cáo có nghĩa vụ thanh toán cho 02 hụi viên này là không đúng. Phần nợ tiền hụi giữa bị cáo H và hụi viên T2, D13 phải được tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự khi có yêu cầu.
Dây hụi thứ hai: Mở ngày 04.4.2013 (nhằm ngày 24.02.2013 âm lịch), loại hụi 8.000.000đồng, có 25 chân với 18 hụi viên tham gia, mỗi tháng khui một lần. H chiếm đoạt 02 chân hụi của ông S1 và bà H11 với tiền thực đóng của hai hụi viên S1 và H11 là 241.660.000đồng.
Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo H chỉ chiếm đoạt 02 chân hụi của ông Lê Trường S1 và bà Lâm Thị Thu H18, nên bị hại trong dây hụi này là ông S1 và bà H11. Phần trách nhiệm dân sự được giải quyết đối với dây hụi này là giải quyết việc đòi lại tài sản bị chiếm đoạt của ông S1 và bà H11, nhưng Việc Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết luôn phần nợ tiền hụi theo thỏa thuận dân sự giữa bị cáo H và hụi viên Trần Thị H9 trong vụ án này là không chính xác.
Dây hụi thứ ba: Mở ngày 18.5.2013 (nhằm ngày 09.4.2013 âm lịch), loại hụi 2.000.000/tháng, có 25 chân, với 18 hụi viên tham gia. H chiếm đoạt số tiền 36.160.000đồng.
Số tiền bị cáo H chiếm đoạt là số tiền bị cáo hốt khống tại kỳ 14. Bị hại được xác định trong dây hụi này cũng chỉ là hụi viên Lê Trường S1 (hụi viên chưa được hốt hụi do hành vi hốt khống của bị cáo tại kỳ thứ 14), nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định tất cả các hụi viên tham gia dây hụi là bị hại là chưa đúng.
Đối với phần giải quyết trách nhiệm dân sự thì phần nợ tiền hụi giữa bị cáo H và các hụi viên Nguyễn Văn H3, Trần Văn C19 được xác định không có dấu hiệu chiếm đoạt nên cần phải tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu.
Dây hụi thứ tư: Mở ngày 06.9.2013 (nhằm ngày 02.8.2013 âm lịch), loại hụi 5.000.000đồng/tháng, gồm có 25 chân với 21 hụi viên tham gia. H chiếm đoạt số tiền là: (472.930.000đồng – 83.900.000 đồng-92.050.000 đồng) = 296.980.000 đồng.
Bị hại được xác định trong dây hụi này cũng chỉ là những hụi viên chưa được hốt hụi do hành vi hốt khống của bị cáo bao gồm: Bùi Văn C19 (Bùi Văn Đ7), Trần Thị N10, Nguyễn Văn M2, Trần Văn C19, Phan Thanh G8, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định các hụi viên khác cũng là bị hại trong vụ án và giải quyết luôn phần dân sự giữa bị cáo và các hụi viên này.
Dây hụi thứ năm: Mở ngày 22.11.2013 (nhằm ngày 20.10.2013 âm lịch), loại hụi 5.000.000đồng/tháng, có 27 chân với 23 hụi viên tham gia. H tự ý lấy tên hụi viên trong dây hụi để hốt 01 kỳ, chiếm đoạt số tiền 93.077.000đồng.
Bị hại được xác định trong dây hụi chỉ là những hụi viên chưa được hốt hụi bao gồm: Nguyễn Thanh T3 (Nguyễn Văn Dãnh), Phạm Thanh T5, Trần Mai N18, Lâm Thị Thu H18, Trần Công C18, Nguyễn Văn M2, Mai Văn C4, Nguyễn Văn C19, Phan Thị Đ10.
[3.2] Đối với các dây hụi thứ sáu (mở ngày 22.12.2013, nhằm ngày 20.11.2013 âm lịch), thứ bảy (mở ngày 08.4.2014, nhằm ngày ngày 09.3.2014 âm lịch), thứ tám (mở ngày 09.6.2014 tức ngày 12.5.2014 âm lịch): Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo Phan Hữu H không chiếm đoạt tiền của các hụi viên nên không có hành vi phạm tội tại các dây hụi này. Do đó, các khoản tiền nợ giữa bị cáo và các hụi liên quan đến 3 dây hụi này giữa bị cáo và các hụi viên là giao dịch dân sự, và phải được tách ra giải quyết bằng thủ tục tố tụng dân sự nếu có yêu cầu. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xác định các hụi viên tham gia 3 dây hụi này cũng là bị hại trong vụ án hình sự, đồng thời giải quyết cả phần dân sự giữa bị cáo và các hụi viên trong ba dây hụi không có yếu tố phạm tội hình sự trên là đã xác định sai người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
[3.3] Mặt khác, dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội có hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Theo nhận định ở mục [3.1] thì thực chất trong mỗi dây hụi chỉ có một số hụi viên bị bị cáo chiếm đoạt tiền (những người chưa hốt hụi), những hụi viên còn lại vẫn thực hiện giao dịch đúng theo thỏa thuận. Do vậy, cơ quan tiến hành tố tụng cần làm rõ trong mỗi dây hụi hành vi nào của bị cáo là cấu thành tội phạm, hành vi nào chỉ là thực hiện giao dịch dân sự. Từ đó làm căn cứ để đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và xem xét trách nhiệm của bị cáo. Việc cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm nhận định bị cáo có hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt trong tất cả dây hụi, nhưng lại bóc tách phần tiền hụi giữa bị cáo và các hụi viên khi xem xét trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự là xác định không đúng hành vi phạm tội của bị cáo đối với một số hụi viên.
[3.4] Quá trình giải quyết vụ án, người bị hại yêu cầu bà Nguyễn Thị N1 (vợ bị cáo) phải liên đới với bị cáo trả tiền nợ cho các bị hại. Bà N1 cũng tự nguyện đồng ý liên đới cùng bị cáo liên đới trách nhiệm dân sự, nên bản án sơ thẩm đã tuyên buộc bị cáo H và bà N1 có nghĩa vụ liên đới trả tiền cho các bị hại. Xét thấy, trách nhiệm dân sự liên đới trong vụ án hình sự được áp dụng đối với trường hợp phạm tội đồng phạm. Đối với những giao dịch dân sự (không có dấu hiệu hình sự) do bị cáo thực hiện thì pháp luật dân sự có quy định trường hợp buộc bà N1 phải cùng chịu liên đới nghĩa vụ với bị cáo. Kết quả điều tra xác định vụ án này không có đồng phạm, và bà N1 được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo nhận định ở các mục trên thì trong các dây hụi tồn tại cả hành vi phạm tội, và giao dịch dân sự. Do đó, bản án sơ thẩm tuyên buộc bà N1 phải liên đới chịu tất cả trách nhiệm dân sự với bị cáo là không phù hợp. Bà N1 chỉ có nghĩa vụ liên đới phải chịu trách nhiệm dân sự trong các giao dịch dân sự do bị cáo thực hiện, nếu có căn cứ chứng minh. Trong vụ án hình sự thì trường hợp bà N1 đồng ý cùng bị cáo thực hiện trách nhiệm dân sự thì Tòa án chỉ có thể ghi nhận sự tự nguyện này của bà N1, chứ không thể tuyên buộc bà N1 phải chịu trách nhiệm liên đới.
[4] Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định không chính xác người bị hại Tòa án cấp sơ thẩm cần thẩm tra, xác định lại cho đúng bị hại trong vụ án và giải quyết lại cho đúng phần trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với các dây hụi. Đối với phần bị cáo nợ tiền của các hụi viên không phải là bị hại trong vụ án và phần các hụi viên không phải bị hại trong vụ án nợ tiền bị cáo, cần được tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự khi có yêu cầu. Những sai sót nêu trên của cấp sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm không thể sửa chữa khắc phục. Vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo và những người bị hại, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 26/2021/HS-ST ngày 05/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau giải quyết lại vụ án theo quy định pháp luật.
[5] Về án phí phúc thẩm, bị cáo và các bị hại không phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[Nguồn: Bản án phúc thẩm số 237/2022/HS-PT Ngày 25/4/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn Bản án: Bản án phúc thẩm số 237/2022/DS-PT