Feel free to go with the truth

Trang chủ / Kinh doanh & Thương mại / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Án sai nhưng không sửa vì Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết đối với phần Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm không xem xét

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Án sai nhưng không sửa vì Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết đối với phần Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm không xem xét

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Ngày 23/12/2019, Ngân hàng thỏa thuận cho Công ty TC vay tiền theo Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 659/HĐTD-VLO.KH (sau đây gọi tắt là Hợp đồng số 659) và các Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 01 ngày 16/7/2020; Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 02 ngày 17/7/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 03 ngày 18/9/2020, hạn mức vay là 47.000.000.000 đồng, thời hạn duy trì hạn mức cho vay là 09 tháng kể từ ngày ký kết, mục đích vay bổ sung vốn kinh doanh xăng dầu. Ngân hàng đã giải ngân cho vay và Công ty TC đã nhận nợ theo các Giấy nhận nợ và Ủy nhiệm chi. Quá trình thực hiện hợp đồng, do Công ty TC vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Công ty TC thanh toán số tiền 52.539.305.000 đồng (gồm nợ gốc 46.673.124.000 đồng; nợ lãi trong hạn 4.003.892.000 đồng; lãi quá hạn 1.762.649.000 đồng; lãi chậm trả 99.703.000 đồng), nếu không trả được nợ thì xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

[2] Xét nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh :

[2.1] Đối với nội dung kháng nghị Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm về tố tụng do tống đạt văn bản tố tụng cho bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thông qua ông Trần Minh Tr không có mối quan hệ huyết thống, không phải là nhân viên Công ty TC, không ở cùng địa chỉ các đương sự:

Hồ sơ vụ án thể hiện: Công ty TC (do bà Nguyễn Thị U làm giám đốc, bà Nguyễn Nguyệt Tuyết Ng là Chủ tịch Hội đồng thành viên) có địa chỉ trụ sở tại số BA, khóm TM, phường TQD, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp. Địa chỉ này cũng chính là địa chỉ của bà Nguyễn Thị U và địa chỉ của bà Nguyễn Nguyệt Tuyết Ng (có chồng là ông Đỗ Thanh Hg), Chủ tịch kiêm giám đốc Công ty TC. Bà Nguyễn Nguyệt Tuyết Ng còn là Chủ tịch kiêm giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên xăng dầu HN.

Tại quyền sử dụng đất thửa 103, 299 khóm TM thể hiện trên đất có cất 02 căn nhà: Nhà số BA do bà Ngân là chủ hộ; nhà số B do bà Nguyễn Thị Tuyết H là chủ hộ (ông Tr là chồng bà H). Văn phòng thừa phát lại đã tống đạt các văn bản tố tụng trước và sau khi xét xử sơ thẩm cho người nhận là ông Trần Minh Tr.

Theo Biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty Trách nhiệm hữu hạn xăng dầu TC số 10/BB-HĐTV ngày 21/11/2018; Quyết định bổ nhiệm cán bộ ngày 21/11/2018 đã thể hiện ông Trần Minh Tr là Phó giám đốc Công ty TC kể từ ngày 28/11/2018. Tại Giấy ủy quyền số 02 ngày 21/12/2019, bà Nguyễn Thị U – chức vụ: Giám đốc, người đại diện theo pháp luật của Công ty TC đã ủy quyền cho ông Trần Minh Tr – chức vụ Phó giám đốc “được đại diện cho Công ty TC thực hiện ký kết hợp đồng và các văn bản sửa đổi, bổ sung, phụ lục hợp đồng, giấy tờ khác có liên quan (nếu có) để vay vốn tại Ngân hàng….”. Ngày 23/12/2019, bà Nguyễn Thị U đã đại diện Công ty TC ký Hợp đồng tín dụng số 659 với Ngân hàng để vay theo hạn mức. Như vậy, các biên bản giao giấy tờ, hồ sơ, tài liệu giữa Văn phòng Thừa phát lại LTQ và ông Trần Minh Tr đều thể hiện việc ông Trần Minh Tr đã kiểm tra, nhận đủ các giấy tờ và cam kết giao lại tận tay cho các đương sự. Do ông Tr là Phó giám đốc Công ty TC, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị U (người đại diện theo pháp luật của Công ty TC) nên việc Tòa án cấp sơ thẩm đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Tr là đúng trình tự thủ tục tố tụng.

[2.2] Đối với nội dung kháng nghị về lãi suất, vi phạm tính lãi chồng lãi:

Kháng nghị nhận định “Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Bảng tính gốc, lãi, lãi phạt đến hết ngày 30/3/2020 do Ngân hàng cung cấp nhưng không tiến hành thẩm định, xem xét lại Bảng chiết tính nêu trên, tuyên buộc Công ty TC phải trả cho Ngân hàng số tiền nợ lãi trong hạn là 4.003.892.000 đồng, lãi quá hạn là 1.762.469.000 đồng là không có cơ sở”.

Đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như Hợp đồng tín dụng, hợp đồng sửa đổi, bổ sung, Giấy nhận nợ; xét thấy Công ty TC đã nhận tiền của Ngân hàng, hai bên thỏa thuận lãi suất là 5%/năm và tại các Giấy nhận nợ số 168 – 188B thể hiện “Lãi suất cố định là 5%/năm”; tại các Giấy nhận nợ số 189 – số 214 thể hiện “Lãi suất cố định là 4,5%/năm”. Nguyên đơn là Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở Công ty TC trả nợ nhưng Công ty TC vẫn không trả nợ cho Ngân hàng là vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Tại mục 1.2 Điều 1 của Hợp đồng sửa đổi bổ sung ngày 18/9/2020, Ngân hàng và Công ty TC đã sửa đổi khoản 3.3 Điều 3 thành “Ngay khi khách hàng bị chuyển nợ nhóm 2 hoặc nợ xấu. Ngân hàng chuyển sang áp dụng lãi suất cho vay thông thường theo quy định của VCB đối với thời hạn cho vay còn lại và các khoản giải ngân tiếp theo của Hợp đồng cho vay đã ký còn hiệu lực giải ngân”. Theo Thông báo về việc chuyển nợ quá hạn số 01/TB-QLN ngày 19/11/2020 và Thông báo lãi suất số 02/TB-QLN ngày 18/8/2021 thì Ngân hàng đã thông báo cho Công ty TC biết về số dư nợ gốc mà Công ty TC không trả được nợ đúng hạn bị chuyển thành nợ quá hạn nên việc Ngân hàng áp dụng tính lãi suất cho vay thông thường 5,7% trên Bảng tính gốc, lãi, lãi phạt đến hết ngày 30/3/2022 là phù hợp.

[2.3] Theo Điều 3 về lãi suất cho vay của Hợp đồng tín dụng số 659; Ngân hàng và Công ty TC đã thỏa thuận các khoản lãi mà bên vay phải trả là: lãi suất cho vay trong hạn; lãi suất áp dụng đối với Dư nợ gốc bị quá hạn (150% lãi suất cho vay trong hạn); lãi suất áp dụng đối với lãi chậm trả (10% tính trên số dư lãi chậm trả) nên cách tính lãi suất của Ngân hàng kể từ ngày Công ty TC được thông báo về chuyển nợ quá hạn ngày 19/11/2020 đến ngày 30/3/2022 là phù hợp theo khoản 5 Điều 466. Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 và điểm a, b khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Tại điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tố chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định tương ứng với thời gian chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn” và điểm a khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”

Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về Lãi suất:

  1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

  1. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.

Như vậy, lãi suất cho vay trong hạn và lãi suất áp dụng đối với dư nợ gốc bị quá hạn (150% lãi suất cho vay trong hạn) là lãi suất tính trên nợ gốc (lãi trên nợ gốc, lãi trên nợ gốc quá hạn) được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hai loại lãi này khác với lãi chậm trả tính trên lãi trả không đúng hạn được Ngân hàng và Công ty TC thỏa thuận tại Mục 3.3 Điều 3 của Hợp đồng tín dụng số 659 có nội dung “Mức lãi suất áp dụng đối với lãi chậm trả là 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả” được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[2.4] Trên cơ sở lập luận đã nêu, xét thấy Kháng nghị nhận định “Ngân hàng áp dụng lãi suất đối với Dư nợ gốc bị quá hạn (150% lãi suất cho vay trong hạn) và lãi suất áp dụng đối với lãi chậm trả (10% tính trên số dư lãi chậm trả) thì Công ty TC phải chịu lãi chồng lãi là không đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 8 và Điều 12 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của HĐTPTANDTC quy định “nguyên tắc chỉ xử lý một lần đối với mỗi hành vi không trả nợ đúng hạn… vì tính lãi suất quá hạn (150% lãi suất cho vay trong hạn) cũng là hình thức phạt đối với hành vi không trả nợ đúng hạn” là không có cơ sở chấp nhận. Trong trường hợp này, Ngân hàng tính lãi suất và buộc Công ty TC phải chịu lãi chậm trả (10% tính trên số dư lãi chậm trả) là phù hợp với nội dung thỏa thuận của các bên trong Hợp đồng tín dụng số 659, phù hợp quy định pháp luật.

[2.5] Đối với nội dung xác định tài sản bảo đảm:

Kháng nghị nhận định “Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét đối với hai tài sản mà Công ty TC đã thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh theo Hợp đồng thế chấp hàng hóa số 576/HĐTC-VLO.KH ký ngày 23/12/2019; Quyền đòi nợ từ các đối tác/hợp đồng theo Hợp đồng thế chấp hàng hóa số 577/HĐTC-VLO.KH ký ngày 23/122019 là có thiếu sót”.

Xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên xử lý tài sản đảm bảo Công ty TC đã thế chấp là thiếu sót, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng như nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu là có căn cứ. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm, tại Công văn số 56/VB-VLO.KH ngày 30/5/2023, Ngân hàng đã xác định: “đây là tài sản hình thành trong tương lai, dùng chính tài sản vay nợ từ Ngân hàng để hình thành và cũng là hàng hóa luân chuyển để kinh doanh của Doanh nghiệp nên Ngân hàng xét thấy không yêu cầu đối với Hợp đồng thế chấp hàng hóa số 576/HĐTC-VLO.KH ký ngày 23/12/2019 và Quyền đòi nợ từ các đối tác/hợp đồng theo Hợp đồng thế chấp hàng hóa số 577/HĐTC-VLO.KH ký ngày 23/122019. Nếu sau này các tài sản đảm bảo khác không đủ để trả nợ thì Ngân hàng cũng không yêu cầu xử lý đối với hai hợp đồng thế chấp nêu trên”. Do Ngân hàng không có yêu cầu xử lý đối với hai tài sản trên và việc không yêu cầu này không làm phát sinh nghĩa vụ hoặc gây bất lợi cho các đương sự trong vụ án, không làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ nên quyền, lợi ích hợp pháp của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bên bảo lãnh thế chấp không bị ảnh hưởng nên không cần thiết hủy Bản án sơ thẩm đối với nội dung này theo kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

[Nguồn: Quyết định GĐT số: 16/2023/KDTM-GĐT ngày 13/6/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem file đính kèm toàn văn QĐ số: 16/2023/KDTM-GĐT

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan