Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Sửa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về tuyên bố “Văn bản thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng” vô hiệu vì phù hợp với quy định tại Điều 4, 122, 124 BLDS 2005

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Sửa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về tuyên bố “Văn bản thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng” vô hiệu vì phù hợp với quy định tại Điều 4, 122, 124 BLDS 2005

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng:

Bà Bùi Thị H có đơn kháng cáo trong hạn luật định, đã nộp tạm ứng án phí, do đó kháng cáo được xem là hợp lệ về mặt hình thức.

Nguyên đơn ông Đỗ Văn Kh và đại diện theo ủy quyền củ ông Kh có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

2. Về Nội dung: Xét nội dung kháng cáo của bà Bùi Thị H, Hội đồng xét xử xét thấy:

Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định: Bà Bùi Thị H và ông Đỗ Văn Kh kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Kim Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ngày 29/5/2001. Đến ngày 24/5/2012 thì ly hôn theo Quyết định giải quyết việc dân sự số 143/2012/QĐ – HNGĐST của Tòa án nhân dân quận Đống Đa.

Trong thời gian chung sống, ông Kh bà H cùng nhau lập “Văn bản thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng” ngày 10/12/2009 (Văn bản ngày 10/12/2009). Đến ngày 11/4/2013 ông Kh có đơn khởi kiện yêu cầu hủy văn bản nêu trên.

Xem xét tính hợp pháp của “Văn bản thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng” và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhận thấy:

– Về hình thức: “Văn bản thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng” được lập ngày 10/12/2009 có công chứng của Văn phòng Công chứng KĐ (nay là Văn phòng công chứng NK), giữa hai bên là ông Đỗ Văn Kh và bà Bùi Thị H, có chữ ký của ông Kh và bà H trên từng trang, và chữ ký, chữ viết họ tên, điểm chỉ của cả hai người tại trang cuối. Ông Kh, bà H thực hiện ký kết văn bản trước sự chứng kiến của Công chứng viên khi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trên cơ sở tự nguyện, đúng ý chí của các bên tham gia.

– Về nội dung: “Văn bản thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng” ngày 10/12/2009 có nội dung ông Đỗ Văn Kh và bà Bùi Thị H cùng thống nhất xác định bà H có toàn quyền riêng biệt trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với các tài sản gồm:

+ Nhà đất có Giấy chứng nhận AB 842430 MS:10109373180 Quyết định cấp số 31/2009/QĐ – UBND do UBND quận Đống Đa cấp ngày 05/01/2009 đứng tên bà Bùi Thị H.

+ Nhà đất có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 249494 vào số cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00732 do UBND huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên cấp ngày 13/12/2005 đứng tên bà Bùi Thị H.

+ Nhà đất có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AQ 209370 vào số cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1459 do UBND thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai cấp ngày 10/08/2009 đứng tên bà Bùi Thị H.

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có cơ sở để xác định, trước thời điểm ông Kh, bà H ký kết“Văn bản thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng”, thì ông Kh đã từng lập văn bản cam kết giữa ông và bà H hoàn toàn độc lập về kinh tế, đó là: “Văn bản cam kết về tài sản” đề ngày 02/6/2009 tại UBND phường Kim Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, do ông Đỗ Văn Kh viết và ký xác nhận, có chứng thực của UBND phường Kim Liên. Nội dung của văn bản này ông Kh xác định nhà đất tại Số 15 ngách 7/16 Thái Thịnh, Ngã Tư Sở, quận Đống Đa, Hà Nội là tài sản riêng của bà H. Tại mục 7 của văn bản này nêu rõ: “Các cam kết khác: Từ khi chúng tôi là vợ chồng đến nay và mãi mãi về sau, chúng tôi đã cam kết chăm sóc nhau về mặt tình cảm và không có con chúng; còn về kinh tế của nhau chúng tôi hoàn toàn độc lập.”

Như vậy, xuyên suốt thời kỳ hôn nhân giữa ông Kh và bà H đã nhiều lần khẳng định và cam kết về việc độc lập với nhau về kinh tế, cũng như xác định phần tài sản riêng của bà H.

Ngày 10/12/2009 ông Kh, bà H lập “Văn bản thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng”, mặc dù tên gọi của văn bản này là thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng, nhưng nội dung của văn bản thể hiện sự cam kết của ông Kh với bà H đối với 03 tài sản nêu cụ thể trong văn bản đều do bà H đứng tên, thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp riêng của bà H.

Xem xét các lý do ông Đỗ Văn Kh đưa ra để khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu đối với Văn bản ngày 10/12/2009, Hội đồng xét xử xét thấy:

+ Về bản chất Văn bản ngày 10/12/2009 không phải là thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng, nên Văn bản này không thuộc đối tượng điều chỉnh của Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2004. Do đó, đối với yêu khởi kiện của ông Kh đề nghị Tòa án tuyên hủy Văn bản này với lý do: Tài sản riêng của vợ chồng phải được xác định theo quy định của Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình là không có cơ sở để chấp nhận.

+ Văn bản ngày 10/12/2009 không phải là hợp đồng hay giao dịch về bất động sản, mà nội dung văn bản là sự ghi nhận ý chí của ông Kh đối với việc xác nhận 03 khối tài sản thuộc quyền sở hữu và sử dụng riêng của bà H. Căn cứ theo hướng dẫn tại Công văn số 3834/BTP-HCTP ngày 10/10/2007 của Bộ Tư pháp v/v nghiệp vụ công chứng thì văn bản này không phải là đối tượng điều chỉnh theo quy định Khoản 1 Điều 37 Luật Công chứng năm 2006. Do đó, trong trường hợp này Văn phòng Công chứng KĐ (nay là Văn phòng Công chứng NK) thực hiện việc công chứng Văn bản ngày 10/12/2009 không trái với quy định của pháp luật. Như vậy, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Kh với lý do nội dung văn bản công chứng đã vi phạm khoản 1 Điều 37 Luật công chứng khi Văn phòng Công chứng ghi nhận thỏa thuận ngày 10/12/2009 có 2 tài sản nằm tại tỉnh Hưng Yên và tỉnh Lào Cai.

+ Đối với lý do khi công chứng, Chứng minh thư nhân dân của ông Đỗ Văn Kh cấp ngày 05/03/1982 là đã quá hạn 15 năm nên không còn giá trị sử dụng theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 05/1999/NĐ – CP ngày 03/02/1999 của Chính phủ quy định về Chứng minh thư nhân dân, Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2005 thì việc chứng minh nhân dân đã hết hạn sử dụng không ảnh hưởng đến việc ký kết các loại văn bản và giao dịch dân sự không bị coi là vô hiệu khi chứng minh thư đã hết hạn.

Từ những phân tích nêu trên, HĐXX xét thấy hình thức và nội dung của “Văn bản thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng” ngày 10/12/2009 phù hợp với quy định tại Điều 4, Điều 122, Điều 124 của Bộ luật dân sự năm 2005 và có hiệu lực thi hành đối với các bên ký kết. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Văn Kh không có cơ sở để chấp nhận.

Kháng cáo của bà H đối với bản án sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 09/6/2020 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy là có căn cứ và được chấp nhận.

Đối với phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân thành phố Hà Nội, Hội đồng xét xử xét thấy việc không đưa những người nhận chuyển nhượng tài sản của bà Bùi Thị H tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người này và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó việc hủy bản án là không cần thiết.

Về án phí:

– Do kháng cáo được chấp nhận nên bà Bùi Thị H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm

– Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên ông Đỗ Văn Kh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên căn cứ theo quy định của Luật người cao tuổi năm 2016, ông Kh được xác định là người cao tuổi nên được miễn toàn bộ án phí.

[Nguồn: Bản án số 311/2021/DS-PT ngày 15/7/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 311/2021/DS-PT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan