Feel free to go with the truth

Trang chủ / Nghiên cứu học tập / KINH NGHIỆM XÉT XỬ: QUYẾT ĐỊNH TÁI THẨM HỦY BÁN ÁN PHÚC THẨM VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

KINH NGHIỆM XÉT XỬ: QUYẾT ĐỊNH TÁI THẨM HỦY BÁN ÁN PHÚC THẨM VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tại Đơn khởi kiện ngày 14/11/2011, nguyên đơn ông Kh, bà Ng xác định ông Lê Văn Đ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến phần thế chấp giữa bà V với ông Kh, bà Ng nhưng quá trình giải quyết vụ án ông Kh, bà Ng chỉ yêu cầu bà V trả nợ vay mà không có yêu cầu Tòa án giải quyết phần thế chấp; bà V cũng không có yêu cầu giải quyết phần thế chấp này. Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập ông Đ với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xác định Ông có yêu cầu độc lập đối với phần thế chấp trên hay không, ông Đ không có mặt; Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng đã triệu tập ông Đ hợp lệ nhưng ông Đ vắng mặt nên tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ và nhận định ông Đ có quyền khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại nếu thời hiệu vẫn còn; từ đó Tòa án cấp sơ thẩm không giải quyết phần thế chấp. Ngày 11/7/2012, ông Kh, bà Ng kháng cáo nêu rằng bà V tẩu tán tài sản nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc bà V trả nợ cho vợ chồng Ông, Bà trong khi đó ông Đ là người đứng ra bảo lãnh cho bà V vay tiền nếu bà V không còn tài sản trả nợ thì người bảo lãnh phải thực hiện việc trả nợ, vì vậy vợ chồng Ông, Bà kháng cáo toàn bộ bản án, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết để bảo vệ quyền lợi cho Ông, Bà. Khi xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm đã sửa án sơ thẩm, quyết định thêm nội dung liên quan đến phần thế chấp, cụ thể: “Buộc ông Phạm Văn Kh và bà Bùi Thị Minh Ng trả lại cho bà Nguyễn Lê Cát V 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 642386 thửa đất số 19, tờ bản đồ số 34, diện tích 357 m2 do Ủy ban nhân dân Tp. B cấp ngày 20/3/2008 mang tên hộ bà Thái Thị Thu Huờng – đã chuyển nhượng và sang tên quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn Đ, bà Nguyễn Thị Nga ngày 13/5/2008 sau khi bà V thanh toán xong nợ cho ông Kh, bà Ng” là không đúng, không thuộc trường hợp sửa bản án sơ thẩm được quy định tại Điều 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (nay là Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).

[1.2] Tại Đơn khởi kiện, trong đó nguyên đơn ghi địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn Đ là Tổ dân phố N, phường T, thành phố B; quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông Đ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và triệu tập ông Đ theo địa chỉ M, phường T, thành phố B, ông Đ không có mặt; tại Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 22/2012/QĐ-UTTTCC ngày 21/02/2012, Tòa án cấp sơ thẩm ủy thác cho Tòa án nhân dân thành phố B lấy lời khai ông Đ tại địa chỉ trên nhưng Tòa án nhân dân thành phố B không thực hiện được công việc ủy thác với lý do: “… Tòa án nhân dân thành phố B tiến hành thực hiện công việc ủy thác theo yêu cầu của Qúy Tòa nhưng chính quyền địa phương xác định số nhà M, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk không thuộc phường T, thành phố B. Số nhà M, thành phố B là địa chỉ cư trú của ông Nguyễn Thanh Phong và bà Nguyễn Thị Thủy Tiên. Ông Lê Văn Đ không cư trú tại địa chỉ trên…”; ngày 29/3/2012, Tòa án nhân dân thị xã B ban hành Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ số 270/2012/QĐ-CCCC, trong đó yêu cầu nguyên đơn ông Kh, bà Ng cung cấp địa chỉ đúng của ông Đ; tại Bản tự khai ngày 17/4/2012, nguyên đơn bà Ng trình bày: “… tôi đã liên hệ với công an thị xã B để xác minh nơi cư trú của ông Đ và cơ quan công an thị xã B chỉ cung cấp cho tôi địa chỉ thường trú của ông Đ ở tại số nhà M, tổ dân phố N, phường T, thành phố Buôn Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Ngoài địa chỉ trên tôi không có địa chỉ nào khác của ông Đ …” ; trong khi đó, tại mục VI Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện: “Ông: Lê Văn Đ. Sinh năm: 1962, số CMND: 240960662; Bà: Nguyễn Thị Nga, Sinh năm: 1968. Địa chỉ thường trú: Huyện K, Tỉnh Đắk Lắk…” nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh, làm rõ nội dung trên mà tiến hành giải quyết xét xử vắng mặt ông Đ là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; đối với Tòa án cấp phúc thẩm không tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ mà tiếp tục xét xử vắng mặt ông Đ và ban hành bản án phúc thẩm nêu trên, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

[1.3] Ngoài ra, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 642386 ngày 20/3/2008, đứng tên ông Lê Văn Đ, bà Nguyễn Thị Nga nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà Nguyễn Thị Nga vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.

[2] Về nội dung: quá trình giải quyết vụ án, vợ chồng ông Kh, bà Ng và bà V đều thừa nhận khi vay tiền, bà V thế chấp cho vợ chồng ông Kh, bà Ng quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 642386 do Ủy ban nhân dân thành phố B cấp ngày 20/3/2008 cho hộ bà Thái Thị Thu Hường, được đăng ký biến động vào ngày 13/5/2008 đứng tên ông Lê Văn Đ, bà Nguyễn Thị Nga; thời điểm đó, ông Đ không có mặt và cũng không biết việc bà V thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên để vay tiền của ông Kh, bà Ng; tại bản án phúc thẩm nhận định: “Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bà Ng cũng đồng ý trả lại giấy chứng nhận đã thế chấp sau khi bà V thanh toán xong nợ. Việc bản án sơ thẩm không tuyên buộc bà Ng, ông Kh trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người thế chấp sau khi thực hiện xong nghĩa vụ là thiếu sót. Vì vậy, cần buộc ông Kh, bà Ng trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho bà V sau khi bà V thanh toán xong nợ cho ông Kh, bà Ng”; xét thấy, việc bà V giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho ông Kh, bà Ng để đảm bảo số tiền vay, không thể hiện có sự đồng ý của ông Đ, bà Nga, trong khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đứng tên ông Lê Văn Đ, bà Nguyễn Thị Nga (theo mục VI của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) nhưng Tòa án cấp phúc thẩm, với nhận định trên, đã quyết định: “Buộc ông Phạm Văn Kh và bà Bùi Thị Minh Ng trả lại cho bà Nguyễn Lê Cát V 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng … sau khi bà V thanh toán xong nợ cho ông Kh, bà Ng”; qua đó cho thấy, việc tuyên trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị ràng buộc với việc trả nợ của bà V cho ông Kh, bà Ng; hơn nữa, tại Văn bản số 28/CCTHADS-TH ngày 03/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã B xác định quá trình xác minh điều kiện thi hành án bà V không có tài sản để thi hành nên Chi cục đã trả đơn yêu cầu thi hành án cho ông Phạm Văn Kh, bà Bùi Thị Minh Ng; như vậy, việc ông Kh và bà Ng giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đ, bà N tiếp tục kéo dài.

[3] Do ông Đ, bà N không biết được việc Tòa án giải quyết vụ án, từ đó không biết được tình tiết, nội dung vụ án cũng như không được cung cấp tài liệu, chứng cứ và nêu ra ý kiến của mình để Tòa án và các đương sự khác biết; đồng thời, ông Đ cũng không biết được Tòa án triệu tập Ông theo địa chỉ không đúng, nay ông Đ cung cấp địa chỉ của Ông tại Tổ dân phố N, phường Thống Nhất, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (theo Đơn đề nghị tái thẩm ngày 17/10/2017 và bản sao chứng thực sổ hộ khẩu kèm theo) cho Tòa án để xem xét, giải quyết vụ án.

[4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử tái thẩm xét thấy Quyết định kháng nghị tái thẩm số 01/2021/KN-DS ngày 14/5/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có căn cứ nên được chấp nhận; Tuy nhiên, các vấn đề trên Tòa án cấp phúc thẩm có thể thu thập bổ sung được, vì vậy cần hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 112/2012/DS-PT ngày 10/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm, đúng quy định của pháp luật.

Quyết định: 59/2021/DS-TT

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

 

Bài viết liên quan