NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
[1] Vợ chồng cụ Đỗ Đức Th và cụ Đoàn Thị T có 08 người con chung là bà Đỗ Thị A1, bà Đỗ Thị A2, ông Đỗ Đức Nh, bà Đỗ Thị Y, bà Đỗ Thị Y1 (đã chết, không có chồng con), ông Đỗ Đức L (đã chết, không có vợ con), ông Đỗ Đức M, ông Đỗ Đức T; ngoài ra, cụ Th còn có 01 người con riêng là bà Lê Thị N, Cụ Th chết không để lại di chúc.
Cụ Th và cụ T có khối tài sản chung là diện tích 753m2 đất (đo thực tế là 747m2) thửa số 666, số trích đo 877, tờ bản đồ số 02, tại thôn 6 H, xã H, huyện V, thành phố Hải Phòng, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1997 mang tên cụ Đoàn Thị T (sau đây viết tắt là thửa đất số 666) và tiền cho Chi nhánh VL Hải Phòng thuê đất.
[2] Ông Nh cho rằng cụ Đoàn Thị T để lại 01 bản Di chúc viết tay có nội dung cụ T giao lại đất cho ông Nh và ông T; còn ông M cũng xuất trình bản sao có công chứng Di chúc ngày 18/4/2002 ghi tên người để lại thừa kế là cụ T, có xác nhận của ông Phạm Đức C là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hòa Bình.
Về Bản di chúc do ông Nh xuất trình có nội dung cụ T cho ông Nh 01 sào đất, cho ông T 09 thước đất. Tuy nhiên, Di chúc này không đề ngày tháng, năm, nội dung di chúc không rõ ràng, hình thức di chúc không đúng quy định của pháp luật.
Đối với bản sao Di chúc ngày 18/4/2002 do ông M cung cấp có nội dung cụ T để lại cho vợ chồng ông M được thừa kế thửa đất số 666, di chúc có xác nhận của ông Phạm Đức C là Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H. Tuy nhiên, ông M không cung cấp được bản di chúc gốc; ông Phạm Đức Can xác nhận: phần xác nhận ở dưới thì cá nhân ông C và Ủy ban nhân dân đều xác nhận bằng bút viết tay chứ không sử dụng bằng cách đánh máy văn bản.
Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm xác định Bản di chúc do ông Nh cung cấp và Di chúc ngày 18/4/2002 do ông M xuất trình đều không hợp pháp; đồng thời trích công sức tôn tạo, bảo quản, giữ gìn di sản, chăm sóc cụ T cho vợ chồng ông M bằng một xuất thừa kế và chia di sản thừa kế theo pháp luật diện tích 747m2 thửa số 666 của cụ Đỗ Đức Th, cụ Đoàn Thị T cho những người thừa kế của hai cụ là có căn cứ.
[3] Về việc mở lối đi chung: Thửa đất số 666 của cụ Th và cụ T nằm trên mặt ngõ xóm, chiều rộng ngõ xóm là 1,9m chạy dài hết thửa đất; các phần đất được chia đều tiếp giáp trực tiếp với ngõ xóm nên không cần thiết phải mở thêm lối đi chung mới. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm mở lối đi chung mới có diện tích 82m2 là không cần thiết và lối đi này lại không tiếp giáp với phần đất ông M được chia là không đảm bảo quyền lợi của ông M.
[4] Về số tiền cho thuê mặt bằng: Theo Hợp đồng thuê mặt bằng số 16/HĐTMB ngày 22/01/2008 và các Biên bản bổ sung ký kết giữa ông M, cụ T do ông M đại diện bên cho thuê với Chi nhánh VL Hải Phòng có nội dung ông M và cụ T cho Chi nhánh VL Hải Phòng thuê 12m2 đất mặt bằng để đặt trạm viễn thông VL; ông M và cụ T có trách nhiệm phải đảm bảo an toàn khu vực trạm và các vật tư thiết bị của trạm; chịu trách nhiệm giám sát và kịp thời thông báo cho bên thuê các điều kiện không đảm bảo an toàn hoạt động của nhà trạm, thiết bị của bên thuê. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định toàn bộ số tiền 157.200.000 đồng cho thuê đặt trạm BTS là di sản của cụ T và cụ Th là chưa xem xét công sức của ông M. Trong trường hợp này phải xác định nhà đất của cụ T và cụ Th là cơ sở để cho thuê; công sức giám sát đảm bảo an toàn khu vực trạm và các vật tư thiết bị của trạm là của cụ T sinh sống hàng ngày trên đất; còn ông M có phần công sức nhất định, nên cũng cần trích một phần trong số tiền cho thuê được để đảm bảo quyền lợi cho ông M.
[5] Ngoài ra, kèm theo đơn đề nghị giám đốc thẩm, ông Đỗ Đức M có gửi bản sao có công chứng Di chúc ngày 25/8/2000 ghi tên người để lại thừa kế là cụ Đoàn Thị T. Khi giải quyết lại vụ án, nếu ông M đề nghị xem xét Di chúc này thì Tòa án cần thu thập các chứng cứ cần thiết để xem xét, đánh giá bản Di chúc có hợp pháp hay không theo quy định của pháp luật.
QUYẾT ĐỊNH SỐ: 100/2021/DS-GĐT
———————–
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn