NHẬN ĐỊNH CỦA ỦY BAN THẨM PHÁN TÒA ÁN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
[1]. Nguồn gốc diện tích 650m2 đất của ông Đinh Văn Kh, bà Nguyễn Thị M tọa lạc tại phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình do Ủy ban nhân dân xã Lý Ninh giao để làm nhà ở từ năm 1984; đến ngày 11/11/1997, Nhà nước đo vẽ bản đồ sử dụng đất, diện tích đất nêu trên có số thửa 48, tờ bản đồ số 111 (nay là thửa 22, tờ bản đồ số 132). Ngày 28/5/2004, Ủy ban nhân dân thị xã Đ (nay là Ủy ban nhân dân thành phố Đ) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y 435674, diện tích 830m2 đứng tên ông Kh, bà M. Ngày 25/6/2004, ông Kh và bà M chuyển nhượng cho bà Huỳnh Thị M Hương diện tích 112m2 đất; diện tích đất còn lại là 718m2 (bút lục 06 – 07, 67 – 71).
[2]. Thửa đất của ông Phan Ngọc Th, bà Lê Thị Hồng L có nguồn gốc nhận chuyển nhượng từ ông Lê Ngọc Nam, bà Nguyễn Thị L vào năm 2002. Theo hồ sơ kỹ thuật thửa đất lập ngày 11/11/1997 thì thửa đất nêu trên có số thửa 02, tờ bản đồ số 116 (nay là thửa đất số 23, tờ bản đồ số 132), diện tích 159,8m2. Ngày 24/10/2007, ông Th và bà L được Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 159,8m2 (bút lục 58- 66).
[3]. Ông Kh, bà M cho rằng năm 1991 giữa gia đình Ông, Bà và gia đình ông Nam, bà L đã cắm mốc ranh giới giữa hai nhà. Năm 1998, ông Kh xây tường rào bao quanh khu đất để nuôi gà, nhưng có chừa lại diện tích đất hình tam giác với kết quả đo đạc thực tế là 4,4m2; tại vị trí này ông Kh đã trồng dãy tre hóp làm hàng rào bảo vệ. Năm 2002, gia đình ông Th nhận chuyển nhượng đất từ ông Nam, xây dựng nhà ở và xin triệt hạ dãy tre hóp để không bị rắn cắn. Năm 2010 và năm 2017 ông Th xây tường rào, nhà bếp, chuồng gà, nhà tạm trên diện tích đất mà Ông đã chừa ra, đồng thời xây hầm chứa nước thải bồn cầu trên diện tích đất lấn chiếm của gia đình Ông. Do đó, Ông Bà yêu cầu ông Th, bà L trả lại diện tích đất lấn chiếm theo như kết quả đo đạc là 6,7m2.
[4]. Ông Th và bà L cho rằng trước khi Ông Bà đến ở, gia đình ông Kh đã xây tường rào và tự xác định ranh giới. Ông Bà xây nhà, tường rào và các công trình bên ngoài tường rào của ông Kh nên không có việc lấn chiếm đất nhà ông Kh. Khi Ông Bà xây nhà vào năm 2002, ông Kh, bà M cũng không có ý kiến gì. Về kết quả đo đạc hiện trạng ngày 28/5/2019, Ông Bà không đồng ý, lỗi hoàn toàn do các Cơ quan Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hai bên không đúng thực tế sử dụng đất. Vì vậy, Ông Bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Kh, bà M.
[5]. Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thấy rằng, theo kết quả đo đạc hiện trạng sử dụng đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ lập ngày 28/5/2019, hộ ông Kh, hộ bà Hương (nhận chuyển nhượng đất từ ông Kh), hộ ông Th và 02 hộ khác tiếp giáp với đất ông Kh, ông Th đều sử dụng đất không đúng với ranh giới được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bút lục 82-83).
[6]. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 13/11/2019, ông Trần Thẩm (tiếp giáp hộ ông Kh, ông Th), bà L (người chuyển nhượng đất cho ông Th) trình bày: Nhà ông Kh đã xây tường rào trước khi ông Th xây nhà, từ đó đến nay tường rào vẫn như vậy; trước đây tại vị trí tranh chấp có mấy ngôi mộ và bụi tre hóp của gia đình ông Thị, sau đó ông Th, bà L là người đã trả tiền cho ông Thị để di dời những ngôi mộ này (bút lục 162).
[7]. Quá trình giải quyết vụ án, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tiến hành xác minh tại Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh Đ và lấy lời khai của các nhân chứng như sau:
[8]. Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/11/2020, ông Nguyễn Văn Thị trình bày: gia đình Ông có 12 ngôi mộ tại phần đất ông Kh và ông Th đang tranh chấp, các ngôi mộ này đã được bốc năm 2003; khi gia đình Ông bốc mộ, gia đình ông Th đưa cho gia đình Ông một số tiền và xin phần đất đó nên Ông để lại phần đất đó cho ông Th sử dụng; trước đây anh trai của Ông là ông Nguyễn Văn Mễ (chết năm 1999) có trồng bụi hóp tại vị trí đất tranh chấp (bút lục 49).
[9]. Biên bản lấy lời khai ngày 09/11/2020, ông Trần Thẩm trình bày: Phần đất tranh chấp 4,4m2 nguyên là của ông Thị, Ông cũng có ý định xin phần đất đó nhưng không được, vì ông Th đã góp tiền cho ông Thị bốc mộ nên ông Thị cho ông Th phần đất này; ông Kh xây hàng rào khoảng năm 1997-1998 và xây chéo (trừ bụi hóp) là do đất của ông Kh chỉ tới đó; ông Kh cũng tranh chấp đất với Ông nhiều lần và được phường giải quyết (bút lục 54).
[10]. Biên bản lấy lời khai ngày 09/11/2020, bà L trình bày: Trước đây giữa đất của Bà với đất ông Kh không có gì làm ranh giới; khi lập hồ sơ kỹ thuật thửa đất năm 1997, ông Kh chỉ rào lại chứ chưa xây hàng rào, năm 1998 ông Kh mới xây hàng rào (lúc này bà L chưa chuyển nhượng đất cho ông Th).
[11].Tại Biên bản xác minh ngày 09/11/2020 và ngày 10/11/2020,Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh Đ cung cấp: việc cấp giấy chứng nhận cho gia đình ông Kh, ông Th năm 2004, 2007 chỉ căn cứ vào bản đồ đo đạc năm 1997 do Xí nghiệp trắc địa 203 thực hiện chứ không đo đạc lại hiện trạng; khi đo đạc năm 1997 chưa có mốc giới cố định nên có sai số. Mặt khác đo đạc được phép sai số theo quy định 3% nên không thể khẳng định các ranh giới, mốc giới bản đồ năm 1997 là chính xác hoàn toàn (bút lục 43 – 46).
[12]. Như vậy, có cơ ở xác định diện tích đất tranh chấp 6,7m2 không thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông Kh và bà M. Năm 2004 và năm 2007, Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Kh, bà M và ông Th, bà L nhưng không tiến hành đo đạc hiện trạng sử dụng đất mà căn cứ vào hồ sơ kỹ thuật thửa đất lập năm 1997 dẫn đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hai hộ không đúng với hiện trạng thực tế sử dụng đất. Mặt khác, năm 1991 gia đình ông Kh, bà M và gia đình ông Nam, bà L (người đã chuyển nhượng đất cho ông Th, bà L) đã tự cắm mốc xác định ranh giới đất giữa hai bên; năm 1998 ông Kh, bà L xây tường rào kiên cố và sử dụng ổn định từ đó cho đến khi hai bên có tranh chấp. Tại thời điểm ông Th, bà L xây dựng nhà, chuồng gà, hầm thấm nước thải vệ sinh…., ông Kh và bà M cũng không có ý kiến gì. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tiến hành xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ; ngày 28/6/2021, Chi cục Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ ban hành Công văn số 710/CCTHADS trả lời cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng biết “Qua quá trình tổ chức việc thi hành án theo Quyết định thi hành án số 428/QĐ-CCTHADS ngày 07/01/2020, liên quan đến việc tháo dỡ toàn bộ các công trình nhà tạm, chuồng gà, hầm thấm nước thải vệ sinh…của ông Phan Ngọc Th, bà Lê Thị Hồng L xây dựng trên diện tích đất ở các vị trí là 4,40m2 và B là 2,3m2, tổng cộng 6,7m2 để giao đất cho ông Đinh Văn Kh và bà Nguyễn Thị M, sẽ gặp khó khăn như: Đối với công trình nhà ở, ông Th, bà L xây dựng trên diện tích đất 2,3m2 (vị trí B) phải giao trả cho ông Kh, bà M, diện tích nhà phải tháo dỡ có một phần góc móng, trụ và tường nhà, khi tháo dỡ sẽ ảnh hưởng đến kết cấu cả ngôi nhà…”. Việc, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm căn cứ vào kết quả đo đạc của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ để chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của ông Kh, bà M; buộc ông Th, bà L tháo dỡ toàn bộ công trình trên diện tích đất 6,7m2 để trả lại đất cho ông Kh, bà M trong đó có một phần ngôi nhà cấp 4 của hộ ông Th là không có cơ sở, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông Th, bà L.
[13]. Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấy cần chấp nhận Quyết định kháng nghị số 05/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 09/12/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2019/DS-ST ngày 30/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.
Quyết định số 43/2021/DS-GDT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại Quảng Ngãi:
359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0935 643 666 – 0906 499 446
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: FDVN CHANNEL