NHẬN ĐỊNH CỦA ỦY BAN THẨM PHÁN TÒA ÁN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Bà Dương Trúc T khởi kiện, yêu cầu các bị đơn phải giao trả cho bà khối tài sản bà được hưởng thừa kế theo di chúc của ông Lê Văn M lập ngày 18/4/2014 và lợi tức thu được từ việc khai thác các tài sản đó. Bị đơn là các anh Lê Nguyễn Hữu V, Lê Nguyễn Hữu N không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, đồng thời có yêu cầu phản tố đòi nguyên đơn phải trả lại hai chiếc xe mô-tô cùng Giấy đăng ký xe do ông M đứng tên và trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02238/QSDĐ 0508LAHA 2250 do Ủy ban nhân dân huyện L9, tỉnh Long An cấp cho ông M đứng tên chủ sử dụng. Như vậy, các bên đương sự tranh chấp về thừa kế tài sản và đòi lại tài sản. Các Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp là “đòi lại tài sản” là chưa đầy đủ.
Tại Biên bản hòa giải ngày 01/8/2014, bà T khai: bà và ông M có một con chung sinh năm 2012, đặt tên là Nguyễn Quang V1 (theo họ của mẹ đẻ ông M) nhưng chưa có giấy khai sinh. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa thu thập chứng cứ, xác minh làm rõ lời khai của bà T là có cơ sở hay không là chưa thu thập đầy đủ chứng cứ cho việc giải quyết vụ án; vì nếu có đủ cơ sở xác định anh Nguyễn Quang V1 là con đẻ của bà T và ông M thì phải đưa anh V1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự, đồng thời xem xét, giải quyết đảm bảo quyền lợi của anh V1 (là người chưa thành niên).
[2] Về nội dung:
[2.1] Di chúc do ông Lê Văn M lập, có hai người làm chứng và được Phòng Công chứng số 2 tỉnh Long An chứng nhận ngày 18/4/2014 nên phù hợp với quy định tại Điều 658 Bộ luật dân sự năm 2005 (có hiệu lực tại thời điểm ông M lập di chúc) về thủ tục lập di chúc. Tuy nhiên, trong bản di chúc này, ông M lại thể hiện ý chí là: “Sau khi tôi qua đời thì tài sản thuộc quyền sử dụng và quyền sở hữu của tôi nêu trên (kể cả tài sản gắn liền với đất) sẽ để lại cho bà Dương Trúc T”. Do đó, kể cả trong trường hợp bản di chúc nêu trên là hợp pháp thì cụ Lê Quang LQ1, cụ LQ2 và anh Vinh (nếu có đủ căn cứ xác định anh Vinh là con đẻ của ông M) vẫn được hưởng thừa kế của ông M mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc ông M lập ngày 18/4/2014, theo quy định tại Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005 (nay tương ứng là Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015). Vì vậy, việc ông M lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho bà T được hưởng thừa kế là không hợp pháp đối với phần di sản mà cụ Lê Quang LQ1, cụ LQ2 và anh Vinh được hưởng không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông M.
[2.2] Vào các ngày 05 và ngày 06/5/2014, ông M lập 02 (hai) “Đơn xin hủy di chúc” (thông qua người đánh máy văn bản là ông Huỳnh Văn N1), có hai người làm chứng là ông Nguyễn Văn N2 và ông Trần Thanh N3. Đối chiếu với các quy định tại Điều 654, Điều 656, Điều 662 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì việc ông M “xin hủy bỏ tất cả các di chúc mà tôi đã lập trước đây” là phù hợp về hình thức và thủ tục hủy bỏ di chúc. Do đó, trong trường hợp các đơn xin hủy di chúc trên thể hiện đúng ý chí của ông M thì việc Tòa án tuyên bố Di chúc ngày 18/4/2014 vô hiệu toàn bộ là có căn cứ. Tuy nhiên, lời khai của nguyên đơn, lời khai của các bị đơn, lời xác nhận của những người làm chứng là anh, chị ruột và anh rể của ông M gồm bà Lê Thị Bé N4, bà Lê Thị Bé N5, bà Lê Thị Út N6, bà Lê Thị N7 bà Lê Thị Bé N8, ông Trần Cao N9, ông Lê Văn N10, lời khai của những người làm chứng việc ông M lập Đơn xin hủy bỏ di chúc là ông Nguyễn Văn N2, ông Trần Thanh N3, ông Huỳnh Văn N1 lại có sự mâu thuẫn về tình trạng sức khỏe, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của ông M tại thời điểm ông M lập các Đơn xin hủy di chúc. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không tiến hành đối chất giữa các đương sự, những người làm chứng để làm rõ mâu thuẫn nêu trên, mà đã giải quyết vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại Điều 100 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấy Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ chấp nhận.
Bàn PDF: Quyết định 176/2021/DS-GĐT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại Quảng Ngãi:
359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0935 643 666 – 0906 499 446
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: FDVN CHANNEL