Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / KINH NGHIỆM XÉT XỬ: QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM HỦY BẢN ÁN  SƠ THẨM, PHÚC THẨM  VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

KINH NGHIỆM XÉT XỬ: QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM HỦY BẢN ÁN  SƠ THẨM, PHÚC THẨM  VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG:

[1] Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng: quá trình giải quyết vụ án, bà V khai ngày 19/3/2019 ông Trương Nhất Long có chụp hình việc nhân viên Công ty thu hồi nợ D đến khách sạn V gây áp lực yêu cầu trả nợ, tại thời điểm này có mặt bà H và Công an thành phố N có đến hiện trường kiểm tra hành chính, lập biên bản sự việc; bà V cung cấp hình ảnh trên để chứng minh có sự việc bà H đứng ra giải quyết việc đòi nợ của nhân viên Công ty D đối với Công ty Th tại khách sạn V và sau đó bà H hứa đứng ra trả nợ cho bà T, bà L, ông H 56.000.000.000 đồng nên bà V mới ký giấy mượn tiền ngày 01/10/2018; đồng thời tại Giấy xác nhận ngày 14/8/2019 bà Nguyễn Thị Kim L có xác định:“ngày 24/3/2019 tôi có nhận được cuộc điện thoại của bà Chu Thị Ngọc H … nói rằng ngày mai – ngày 25/3/2019 có ông Mai Thanh T sẽ thanh toán cho tôi 6 tỷ đồng trước khi ký hợp đồng mua khách sạn V. Số tiền 6 tỷ đồng nêu trên là số tiền tôi đầu tư vào khách sạn … cho đến hôm nay là ngày 14/8/2019 tôi vẫn không nhận được bất kỳ khoản tiền thanh toán nào từ ông T theo như lời bà H đã nói trong cuộc gọi” (bút lục số 477); còn đối với bà T, ông H thì chưa có lời khai về vấn đề này. Như vậy, thực tế có sự việc nhân viên của Công ty D đến khách sạn V đòi nợ nhưng Tòa án hai cấp chưa lấy lời khai những người làm chứng nêu trên cùng việc xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ thu thập được để làm sáng tỏ sự việc bà V nhờ bà H, ông T đứng ra can thiệp và hứa trả nợ cho bà L, ông H, cũng như việc trả nợ cho bà T, từ đó nhân viên Công ty D dừng việc đòi nợ Công ty Th như bà V khai hay không.

[2] Theo ông T khai số tiền nợ 56.000.000.000 đồng là cho Công ty Th vay từ đầu năm 2017 đến ngày 01/10/2018 để xây dựng khách sạn V, còn bà V cho rằng không có việc vay mượn trên, nhưng tại Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp số 01/2019/HĐCN ngày 15/02/2019 do hai bên ký kết, trong đó có nội dung thể hiện: “ … Bên A (bà V) đồng ý chuyển nhượng cho bên B (ông T) 70 % vốn điều lệ của Công ty Th, giá trị thực tế 24.500.000.000 đồng … Bên A cam kết rằng mình là chủ sở hữu hợp pháp với đầy đủ quyền hạn … và cam kết rằng toàn bộ phần vốn góp được chuyển nhượng cho bên B không bị ràng buộc bất kỳ sự cầm giữ, sự yêu sách và các khoản nợ nào, kể cả thuế bất kỳ …”, chứng tỏ các bên xác định không có khoản nợ nào ràng buộc đối với vốn góp xây dựng khách sạn tính đến thời điểm chuyển nhượng. Mặt khác, cùng thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng vốn góp thì bà V viết Giấy biên nhận số tiền 39.000.000.000 đồng về việc chuyển nhượng vốn góp, trong khi đó tại Giấy mượn tiền ngày 01/10/2018 thể hiện thời điểm bà V trả nợ 56.000.000.000 đồng cho ông T là vào ngày 24/02/2019; như vậy nếu như Công ty Th còn nợ ông T 56.000.000.000 đồng thì việc ngày 16/02/2019 ông T tiếp tục giao 39.000.000.000 đồng cho Công ty Th theo Giấy mượn tiền trên mà không khấu trừ số tiền nợ 56.000.000.000 đồng là không hợp lý, không phù hợp với diễn biến của việc vay mượn tiền, chuyển nhượng vốn góp trong Công ty Th.

[3] Mặt khác, đối với việc chuyển nhượng vốn góp nêu trên, trong hồ sơ vụ án“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, lúc đầu ông T khai giá chuyển nhượng là 39 tỷ tại Bản tự khai ngày 20/11/2019 (bút lục 572), sau đó tại phiên tòa sơ thẩm ngày 19/8/2019 ông T khai giá là 275 tỷ (bút lục 378) nhưng trong hồ sơ vụ án“Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng vốn góp”mà Tòa án nhân tỉnh Khánh Hòa đang giải quyết, tại Đơn khởi kiện ngày 25/3/2019 (bút lục 10), ông T lại trình bày:“Thực hiện hợp đồng, tôi đã giao đủ 39.000.000.000 đồng (ba mươi chín tỷ đồng) và bà V đã bàn giao toàn bộ khách sạn volga, con dấu cho tôi quản lý” và tại Bản tự khai ngày 17/6/2019 (bút lục 81), ông T khai:“…bà V chuyển nhượng 70% vốn điều lệ của công ty Th cho tôi và tôi đã giao đủ số tiền 39.000.000.000 đồng (ba mươi chín tỷ đồng cho bà V và bà V đã làm thủ tục bàn giao con dấu, bàn giao công ty cho tôi quản lý…”; cho thấy lời khai của ông T là không nhất quán.

[4] Qua nội dung trình bày của các bên tranh chấp nêu trên, cùng các tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ vụ án, thì những tình tiết cần phải được làm rõ đều liên quan đến việc xem xét, đánh giá tính xác thực về Giấy mượn tiền ngày 01/10/2018 với Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp ngày 15/02/2019; trong khi đó, bị đơn Công ty Th lại có đơn yêu cầu phản tố, trong đó: đối với yêu cầu tuyên bố vô hiệu Giấy mượn tiền ngày 01/10/2020, thì chỉ được xem là ý kiến phản đối yêu cầu của nguyên đơn; còn đối với yêu cầu tuyên bố vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp ngày 15/02/2019 và yêu cầu trả lại con dấu của Công ty TNHH Th, nhận thấy các yêu cầu này của bị đơn không trùng với yêu cầu của nguyên đơn và có liên quan với nhau như phân tích trên, nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác, kịp thời, nhanh hơn khi tách ra thành từng vụ để giải quyết, cho nên đó là yêu cầu phản tố theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó Tòa án cấp sơ thẩm trước tiên phải thụ lý yêu cầu phản tố này của bị đơn để giải quyết trong cùng vụ án nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại không thụ lý đơn mà ban hành thông báo trả lại đơn yêu cầu phản tố.

Do yêu cầu phản tố trên của bị đơn thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, được quy định tại khoản 3 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự, cho nên sau khi thụ lý yêu cầu phản tố nêu trên thì Tòa án thành phố N chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa để giải quyết theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Từ những phân tích trên, cho thấy Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty TNHH Th trả cho ông Mai Thanh T 56.000.000 đồng là chưa đủ cơ sở vững chắc; Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm, do vậy cần phải kháng nghị giám đốc thẩm với hướng hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm, bản án dân sự sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định pháp luật.

Do vụ án có tính chất phức tạp; mặt khác ngày 19/4/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã thụ lý vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng vốn góp” (Thông báo về việc thụ lý vụ án số: 07/TB-TLVA) theo đơn khởi kiện của ông Mai Thanh T, cho nên giao hồ sơ vụ án trên cho Tòa án nhân tỉnh Khánh Hòa thụ lý sơ thẩm, nhập vào vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng vốn góp” thành một vụ án để giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 42 của Bộ luật Tố tụng.

Quyết định số: 34/2021/DS- GĐT

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng:

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế:

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan