NHẬN ĐỊNH CỦA ỦY BAN THẨM PHÁN TÒA ÁN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
{1}. Về phần đất hành lang có diện tích 8,5m2 đang tranh chấp và việc buộc bà O phải xây bít cửa có diện tích 0,9m2 mở ra hành lang:
Căn nhà số 124 đường Trần Hưng Đ (số nhà cũ là 76 Trần Hưng Đ), thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi có nguồn gốc của cụ Nguyễn L (chết năm 2000), cụ Phạm Thị Lợi (chết năm 2003) (là cha mẹ chồng bà Nguyễn Thị Kim B) nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Ngọc Ch, bà Đoàn Thị H vào năm 1970, diện tích đất là 133m2.
Ngày 13/11/1993, cụ L, cụ Lợi chuyển nhượng một phần diện tích nhà, đất cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu T, bà Dương Thị Bạch T diện tích đất 52,5 m2 theo giấy mua bán nhà lập ngày 13/11/1993, được Ủy ban nhân dân phường Chánh L xác nhận ngày 01/12/1993, đăng ký quyền sở hữu nhà ở tại Sở Xây dựng Quảng Ngãi ngày 07/10/1994. Năm 1995, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thu hồi một phần diện tích đất của ông T, bà T để mở đường, nên diện tích đất của ông T, bà T còn lại là 35,5m2.
Ngày 24/6/1998, ông Thịnh, bà Tuyết ký hợp đồng mua bán nhà ở số 15/CC-MBN chuyển nhượng nhà, đất trên cho ông Trương Minh L, bà Trần Thị Bạch T. Ngày 26/3/2008, Ủy ban nhân dân thành phố Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 233904 (số vào sổ H 01913), chứng nhận ông Trương Minh L, bà Trần Thị Bạch T được quyền sử dụng thửa đất số 2702, tờ bản đồ số 1, diện tích 36,3m2. Ngày 19/01/2009, Ủy ban nhân dân thành phố Q cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở số 515222103100215, chứng nhận ông Long, bà Tuyết được quyền sở hữu nhà ở diện tích sàn 72,18 m2 (nhà cấp II), số tầng: 2, diện tích sàn nhà phụ 21,60 m2.
Ngày 24/3/2009, ông L, bà Tt ký hợp đồng mua bán nhà ở số 354 chuyển nhượng nhà, đất trên cho bà Võ Thị Hoàng O. Ngày 06/7/2009, Ủy ban nhân dân thành phố Q cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở số 515222103100324, chứng nhận bà O được quyền sở hữu nhà ở trên.
Phần nhà, đất còn lại cụ L, cụ Lợi tiếp tục sử dụng, sau khi cụ L, cụ Lợi chết, vợ chồng ông Nguyễn H (con của vợ chồng cụ L, chết năm 2001), bà B tiếp tục sử dụng. Ngày 02/3/2007, Ủy ban nhân dân thành phố Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Kim B tại thửa đất số 35, tờ bản đồ số 01, diện tích 64,9 m2 (Tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này thể hiện sơ đồ kích thức thửa đất phía Bắc đất bà B được cấp giáp đường đi).
Như vậy, tại Giấy mua bán nhà ngày 13/11/1993, cụ L, cụ Lợi chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng ông T, bà T có ghi rõ tứ cận, trong đó thể hiện: Phía Đông giáp nhà ông Lê Thanh D có đoạn hẻm đi chung rộng 1,1 m. Tại Công văn số 111/UBND ngày 24/11/2011 của Ủy ban nhân dân phường Chánh L và Báo cáo số 174/BC-TNMT ngày 27/8/2013 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Q đều xác định: Đoạn đường hẻm số 124 Trần Hưng Đ đi vào nhà bà B là lối đi chung của hai hộ (bà B, bà O); theo Sơ đồ mặt bằng hiện trạng nhà đất ngày 23/11/1993 thì đoạn đường hẻm này vi phạm lộ giới, không công nhận quyền sở hữu Với các chứng cứ nêu trên, có cơ sở xác định: Phần đất hành lang (8,5m2); hiện là đường vào nhà bà B là lối đi chung giữa nhà bà O và nhà bà B; đây là phần đất nằm trong lộ giới, không công nhận quyền sở hữu. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm lại công nhận phần diện tích 8,5m2 đất này (lối đi chung) thuộc quyền sử dụng của bà B và buộc bà O phải bít cửa ra lối đi chung là không có căn cứ
{2}. Về việc buộc nguyên đơn tháo dỡ vật kiến trúc nằm trên khoảng không của hành lang lối đi chung):
Theo Sơ đồ mặt bằng hiện trạng nhà, đất của cụ L (đo vẽ ngày 23/11/1993) thì phần diện tích đường hành lang nêu trên vi phạm lộ giới, không công nhận quyền sở hữu, nên phần đất này thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước. Vì vậy, Cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền trong việc xử lý vi phạm nếu xây dựng trái phép. Do đó, nếu bà O xây dựng trái phép trên khoảng không của hành lang thuộc quyền quản lý của Nhà nước thì bà B có quyền tố cáo việc xây dựng trái phép này và Cơ quan có thẩm quyền giải quyết thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Q. Lẽ ra, Tòa án cần tham khảo ý kiến của Ủy ban nhân dân thành phố Q về việc xử lý vi phạm trong việc xây dựng trái phép đối với tầng 3 của nhà số 124 đưòng Trần Hung Đ thì mới đủ cơ sở giải quyết vụ án.
Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng: Việc nguyên đơn xây dựng trái phép (cầu thang xoắn trên ban công tầng 1, xây dụng ban công tầng 2 và một phần tầng 3) trên khoảng không của phần đất hành lang 8,5m2 thuộc quyền sử dụng của bị đơn nên bị đơn có quyền yêu cầu tháo dỡ; từ đó buộc nguyên đơn phải tháo dỡ cầu thang xoắn trên ban công tầng 1, dọn toàn bộ ban công tầng 2 và phần xây dựng tầng 3 trên không gian diện tích 8,5m2 hành lang nêu trên là không có cơ sở, vì 8,5m2 đất hành lang này không thuộc quyền sử dụng riêng của bà B.
QUYẾT ĐỊNH SỐ 16/2022/DS-GĐT
—————
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn