Feel free to go with the truth

Trang chủ / Nghiên cứu học tập / KINH NGHIỆM XÉT XỬ: QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM HỦY BẢN ÁN PHÚC THẨM VỀ VỤ KDTM TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

KINH NGHIỆM XÉT XỬ: QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM HỦY BẢN ÁN PHÚC THẨM VỀ VỤ KDTM TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

NHẬN ĐỊNH LÀ CĂN CỨ ĐỂ ỦY BAN THẨM PHÁN TÒA ÁN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG HỦY BẢN ÁN PHÚC THẨM CỦA TÒA ÁN TINHT GIA LAI

[1]. Về việc ký kết hợp đồng kinh tế:

Ngày 28/9/2010, bà Nguyễn Thị T là chủ Cơ sở mua bán nông sản T ký Hợp đồng kinh tế số 124/HĐKT với vợ chồng ông Nguyễn Thiện Tr và bà Lê Thị H mua 50.000 kg cà phê với giá 29.000 đồng/kg, thời hạn giao hàng chậm nhất là ngày 30/12/2010, phương thức thanh toán bằng tiền mặt 100% sau khi giao đủ hàng.

Cơ sở kinh doanh T thu mua nông sản là để bán lại kiếm lời, do đó sau khi ký hợp đồng với ông Tr, Bà H, bà Nguyễn Thị T đã ký hợp đồng với Công ty TNHH T bán 64.800 kg cà phê, với giá 30.000 đồng/kg, thời hạn giao hàng là ngày 20/02/2011.

Như vậy, việc bà Nguyễn Thị T là chủ Cơ sở kinh doanh T ký hợp đồng mua cà phê của ông Nguyễn Thiện Tr, bà Lê Thị H, sau đó ký hợp đồng bán cà phê cho Công ty TNHH T để kiếm lời là đúng mục đích kinh doanh và phù hợp với các quy định của pháp luật.

[2]. Về việc thực hiện hợp đồng kinh tế:

Do giá cà phê biến động tăng mạnh (theo Công văn số 2246/STC-QLGCS ngày 26/9/2017 của Sở Tài chính tỉnh Gia Lai, thì giá cà phê tháng 10/2010 là 29.871 đồng/kg, tháng 11/2010 là 34.335 đồng/kg, tháng 12/2010 là 34.779 đồng/kg, tháng 01/2011 là 37.840 đồng/kg) nên ông Tr, Bà H không thể thu mua cà phê để giao cho bà Nguyễn Thị T đúng hạn. Để hỗ trợ cho ông Tr, Bà H, bà T đã tạm ứng trước cho ông Tr, Bà H 600.000.000 đồng để tiếp tục thu mua cà phê, nhưng ông Tr, Bà H vẫn không giao đủ cà phê theo thỏa thuận. Tính đến tháng 01/2011, ông Tr, Bà H chỉ giao cho bà T 20.862 kg cà phê, còn thiếu 29.138 kg cà phê. Ông Tr, Bà H cho rằng số tiền 600.000.000 đồng là tiền bà T trả cho số cà phê đã giao và do bà T không cho tạm ứng tiền để mua cà phê, nên không có cà phê để giao là không đúng với hợp đồng đã ký kết, bởi lẽ: theo thỏa thuận giữa hai bên, thì bà T có nghĩa vụ thanh toán khi ông Tr, Bà H giao đủ hàng, không có nghĩa vụ tạm ứng tiền.

Do ông Nguyễn Thiện Tr, bà Lê Thị H không giao cà phê đúng hạn nên bà Nguyễn Thị T không có cà phê để giao cho Công ty TNHH T, bà Tuyết đã xin gia hạn thêm 01 tháng (thời hạn giao hàng là ngày 20/3/2011) nhưng ông Tr, Bà H vẫn không có cà phê để giao, nên ngày 8/3/2011, bà T ký hợp đồng mua của bà Phan Thị T1 29.138 kg cà phê với giá 46.100 đồng/kg để giao cho Công ty TNHH T.

Mặc dù, Hợp đồng kinh tế giữa bà Nguyễn Thị T với ông Nguyễn Thiện Tr, bà Lê Thị H; giữa bà Nguyễn Thị T với Công ty TNHH T và giữa bà Nguyễn Thị T với bà Phan Thị T1 là độc lập nhau, không ràng buộc trách nhiệm lẫn nhau và quy cách cà phê có sự khác biệt, nhưng do đặc điểm kinh doanh của cơ sở thu mua nông sản T là thu mua nông sản với giá thấp, về gia công và tìm đối tác khác để bán lại với giá cao hơn để kiếm lời, nên sau khi ký hợp đồng mua cà phê của ông Tr, Bà H (giá 29.000đ/kg), bà T đã gia công, làm cho độ ẩm và tạp chất của cà phê đều giảm, chất lượng cà phê tăng và ký hợp đồng bán lại cho Công ty TNHH T với giá 30.000 đồng/kg là phù hợp. Do ông Tr, Bà H không giao hàng đúng số lượng đã thỏa thuận trong hợp đồng, dẫn đến việc bà Nguyễn Thị T phải ký hợp đồng mua cà phê của bà Phan Thị T1 để giao cho Công ty TNHH T và bị thiệt hại do giá cà phê tăng cao, do đó bà Nguyễn Thị T yêu cầu ông Nguyễn Thiện Tr và bà Lê Thị H phải bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là đúng quy định tại các Điều 297, 302 và 303 của Luật Thương mại.

[3]. Về yếu tố lỗi do vi phạm hợp đồng:

Xét nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm hợp đồng của ông Nguyễn Thiện Tr, bà Lê Thị H thấy rằng: theo Công văn số 2246/STC-QLGCS ngày 26/9/2017 của Sở Tài chính tỉnh Gia Lai về giá cà phê trong giai đoạn năm 2010-2011, thì từ tháng 11/2010, giá cà phê trên thị trường tăng đột biến, từ 28.940 đồng/kg (giá tháng 9/2010, là thời điểm ký hợp đồng) lên 34.779 đồng/kg (giá tháng 12/2010, hạn cuối giao hàng) và tháng 01/2011, lên đến 37.840 đồng/kg. Ngay sau ký hợp đồng với giá 29.000 đồng/kg (ngày 28/9/2010), thì qua tháng 10/2010, giá cà phê đã tăng lên 29.871 đồng/kg và sau đó tăng lên rất cao. Thời điểm cuối cùng ông Tr, Bà H giao cà phê cho bà T, thì giá cà phê là 37.840 đồng/kg và sau đó giá cà phê tiếp tục tăng cao lên đến 42.378 đồng/kg (tháng 02/2011), 46.006 đồng/kg (tháng 3/2011), nên ông Tr, Bà H không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng. Như vậy, việc giá cà phê tăng đột biến là do nguyên nhân khách quan, các bên không thể lường trước được khi giao kết hợp đồng; ông Tr, Bà H cũng đã cố gắng thực hiện một phần hợp đồng, trong khi phải chịu lỗ và sau đó không còn khả năng tiếp tục thực hiện hợp đồng được nữa.

Mặt khác, theo Hợp đồng mua bán cà phê giữa bà Nguyễn Thị T với vợ chồng ông Nguyễn Thiện Tr, bà Lê Thị H, thì thời hạn giao hàng cuối cùng là ngày 30/12/2010, nhưng đến thời điểm này ông Tr, Bà H không có hàng để giao cho bà T là vi phạm hợp đồng và thời điểm vi phạm hợp đồng là ngày 31/12/2010. Lẽ ra, bà Nguyễn Thị T phải tiến hành thu mua cà phê ngay trong tháng 01/2011 để có hàng giao cho Công ty TNHH T nhằm hạn chế tổn thất theo quy định tại Điều 305 của Luật Thương mại, vì thời gian giao hàng với Công ty TNHH T là tháng 02/2011, nhưng bà T không thực hiện mà lại xin Công ty TNHH T gia hạn đến tháng 3/2011 và ngày 08/3/2011, mới mua hàng của bà Phan Thị T1 với mức giá cao hơn rất nhiều so với giá tháng 01/2011, dẫn đến mức chênh lệch giá so với lúc ký hợp đồng càng cao. Vì vậy, trong trường hợp này, bà Nguyễn Thị T cũng có lỗi một phần.

Xét về mức độ lỗi dẫn đến thiệt hại, thì vợ chồng ông Nguyễn Thiện Tr, bà Lê Thị H có lỗi phần lớn, vì là người vi phạm hợp đồng, không thực hiện việc giao hàng đúng hạn, nên là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Ông Tr, Bà H thừa nhận tháng 01/2011 nhận của bà T 600.000.000 đồng và cho rằng đây là số tiền thanh toán cho lượng cà phê đã giao là không đúng, vì hợp đồng quy định chỉ thanh toán một lần khi giao đủ hàng, không thanh toán từng đợt hay tạm ứng tiền, do đó số tiền nêu trên chính là tiền tạm ứng để hỗ trợ mua hàng như bà T khai là có căn cứ. Đối với bà Nguyễn Thị T, mặc dù không kịp thời thu mua cà phê để hạn chế thiệt hại, nhưng đã cho vợ chồng ông Tr, Bà H tạm ứng số tiền 600.000.000 đồng để mua hàng, nên phần lỗi của bà T ít hơn. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc vợ chồng ông Tr, Bà H chỉ phải thanh toán cho bà Tuyết 262.242.000 đồng, trên tổng thiệt hại là 495.520.828 đồng (tương đương 52,92% lỗi), còn Tòa án cấp phúc thẩm tính giá cà phê thu mua vào tại thời điểm tháng 3/2011 và buộc vợ chồng ông Tr, Bà H bồi thường 495.520.828 đồng (tương đương 100% lỗi) đều chưa phù hợp với mức độ lỗi của các bên đương sự.

BẢN ÁN 16/2020/KDTM-GĐT

…………………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

Bài viết liên quan