NHẬN ĐỊNH CỦA ỦY BAN THẨN PHÁN TÒA ÁN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI:
[1] Ngày 30/6/2009, ông Nguyễn Minh T và bà Ngô Thị Vân Nh ký Hợp đồng thế chấp số 124.09.VT/TCNĐ 56/173188.01 với Ngân hàng, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 21, tờ bản đồ phường C, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, diện tích 54,2m2, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 31/5/2005 mang tên ông Nguyễn Minh T để bảo đảm cho Công ty A vay 1.250.000.000đ. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật. Nguồn gốc thửa đất số 21, tờ bản đồ số 29 và tài sản gắn liền với đất là của ông Nguyễn Minh T và bà Nguyễn Thanh M nhận chuyển nhượng của bà Hồ Thị Nhũ năm 1992; ông T, bà M xây dựng nhà và ở đó đến năm 2001 bà M chết (không để lại di chúc). Ông T và hai người con chung của ông T, bà M là Nguyễn Tiến D sinh năm 1985 và Nguyễn Hà Tr 1990 chưa chia thừa kế phần di sản của bà M nên quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại thửa số 21, tờ bản đồ số 29 là tài sản chung của ông T và những người thừa kế hàng thứ nhất của bà M là anh D, chị Tr.
Theo quy định tại Điều 216 Bộ luật Dân sự 2005 thì “ Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 223 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật”. Trường hợp này, do các đồng sở hữu không có thỏa thuận về quyền sử dụng đất và không ký hợp đồng thế chấp nên cần xác định quyền sử dụng đất của các đồng sở hữu theo phần và áp dụng quy định của pháp luật về sở hữu chung theo phần để giải quyết. Do đó, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực đối với phần thế chấp của ông T và vô hiệu một phần đối với quyền sử dụng đất của anh D, chị Tr theo Điều 135 Bộ luật Dân sự năm 2005. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm tuyên vô hiệu toàn bộ hợp đồng thế chấp là không đúng.
[2] Về tố tụng: Ngày 17/7/2018, Ngân hàng có đơn yêu cầu độc lập với nội dung buộc Công ty A trả Ngân hàng số tiền còn nợ (14.798.092.199đ) và tiền lãi phát sinh theo các hợp đồng tín dụng đã ký, trường hợp Công ty A không trả được nợ đề nghị xử lý các tài sản bảo đảm theo quy định (trong đó có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất đứng tên ông T). Mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Hợp đồng thế chấp ngày 30/6/2009 ký giữa Ngân hàng và ông T là vô hiệu và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông T, tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu với lý do Ngân hàng có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác (Văn bản số 112/2018/CV-TA ngày 20/7/2018 của Tòa án nhân dân thành phố V hướng dẫn Ngân hàng khởi kiện bằng một vụ kiện khác) là giải quyết vụ án không triệt để quy định tại Điều 42, Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Quyết định: 33/2020/DS-GĐT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại Quảng Ngãi:
359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0935 643 666 – 0906 499 446
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: FDVN CHANNEL