NHẬN ĐỊNH CỦA ỦY BAN THẨM PHÁN TÒA ÁN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
[1] Phần đất tranh chấp có diện tích đo đạc thực tế 200,6m2, thuộc thửa số 78, tọa lạc tại địa chỉ 233/2 đường 30/4 phường H1, quận H2, thành phố Cần Thơ có nguồn gốc là của Tu viện T (gọi tắt là Tu viện) được chế độ cũ (Việt Nam Cộng Hòa) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thể hiện ở trích lục hồ sơ điền thổ năm 1968 và các bên nguyên đơn, bị đơn thừa nhận. Đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Bị đơn bà Lý Lệ H cho rằng gia đình bà được Tu viện cho đất để khai phá, sử dụng ổn định từ năm 1985 cho đến nay nên yêu cầu công nhận đất cho gia đình bà; nhưng đại diện Tu viện T khẳng định chỉ cho ở nhờ đến năm 2007 thì Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án Nam Sông Hậu, sau đó gia đình bà H lấn chiếm đất của Tu viện nên xảy ra tranh chấp. Xét thấy:
[2.1] Bà H không có chứng cứ về việc Tu viện T cho đất và Tu viện cũng không có chứng cứ trực tiếp cho gia đình bà H ở nhờ. Tuy nhiên quá trình ông Đ, bà H sử dụng trên thực tế, hồ sơ thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng thể hiện Tu viên Thánh Gia nhận tiền bồi thường giá trị quyền sử dụng đất, gia đình bà H nhận tiền bồi thường tài sản trên đất, nên có cơ sở xác định ông Đ, bà H ở nhờ trên đất Tu viện từ năm 1985.
[2.2] Bà H trình bày diện tích bà sử dụng trên đất Tu viện T khoảng 300m2 và khi Nhà nước thu hồi là 337,6m2. Về phía Tu viện T cho rằng năm 2005, Nhà nước thực hiện dự án Nam Sông Hậu thu hồi một phần diện tích đất mà Tu viện quản lý, trong đó có diện tích đất mà ông Đ (chồng bà H) cất nhà. Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm chưa làm rõ diện tích đất ông Đ, bà H sử dụng trước khi Nhà nước thu hồi bao nhiêu? Thu hồi một phần hay toàn bộ diện tích đất ông Đ, bà H sử dụng? Ngoài tài sản gia đình bà H bị giải tỏa thì vào thời điểm thu hồi còn tài sản khác của bà H trên đất hay không? Mới biết được bà H có lấn thêm đất của Tu viện T sau khi bị thu hồi và lấn thêm diện tích bao nhiêu? Việc bà H bị xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 37/QĐ-UBND ngày 17/4/2007 của Ủy ban nhân dân phường H1 là do cất nhà trái phép trên đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không làm rõ được những nội dung nêu trên.
[2.3] Khi Tu viện T nhận tiền đền bù giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi có tính toán đến quyền lợi của gia đình bà H đã đầu tư san lấp, tôn tạo trên diện tích đất mà bà H sử dụng bị thu hồi hay không?
[3] Cho đến nay, toàn bộ diện tích đất Tu viện T trong đó có diện tích tranh chấp chưa được đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này, cần có ý kiến bằng văn bản của Ủy ban nhân dân quận H2 nêu rõ quan điểm về quá trình sử dụng đất của hai bên đương sự, về quy hoạch cũng như điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất tranh chấp để làm cơ sở giải quyết vụ án đúng pháp luật về đất đai.
[4] Trong khi chưa thu thập đầy đủ chứng cứ để làm rõ những vấn đề nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm tính công sức đóng góp của bị đơn là 30% trên giá trị đất, buộc nguyên đơn giao trả cho bà H 710.500.000 đồng (có 100.000.000 đồng hỗ trợ di dời), Tòa án cấp phúc thẩm công nhận Tu viện T trả cho bị đơn 400.000.000 đồng là chưa có cơ sở vững chắc, bị đơn tiếp tục khiếu nại vấn đề
này nên cần được xét lại. Về nguyên tắc, đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của Tu viện T, đủ các điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà H ở nhờ hoặc lấn chiếm thì phải trả lại đất cho Tu viện; Tu viện phải hoàn trả giá trị đầu tư san lấp, tôn tạo mặt bằng làm tăng giá trị đất cho bà H. Trường hợp diện tích đất tranh chấp vẫn nằm trong diện tích bà H ở nhờ từ năm 1985 đến nay và bị đơn, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thật sự khó khăn về chỗ ở thì có thể xem xét buộc bà H hoặc những người này trả giá trị quyền sử dụng đất cho Tu viện theo giá thị trường trừ chi phí đầu tư tăng giá trị đất để được tiếp tục sử dụng đất trên làm điều kiện sinh sống.
QUYẾT ĐỊNH: 174/2021/DS-GĐT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại Quảng Ngãi:
359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0935 643 666 – 0906 499 446
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: FDVN CHANNEL