NHẬN ĐỊNH CỦA ỦY BAN THẨM PHÁN TÒA ÁN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG:
Ngày 04/4/2015, bà Nguyễn Thị Th (bên A, chủ đầu tư) và Công ty T (bên B- bên nhận thi công) ký Hợp đồng thi công xây dựng số 04/2015/TNL, nội dung: bên A giao khoán cho bên B thi công xây dựng toàn bộ phần nhân công phần thô và hoàn thiện (không bao gồm phần nhân công đóng trần và thi công nội thất) công trình Nhà hàng tiệc cưới Như Ý (nay là Nhà hàng tiệc cưới MT ) tại 504-506 đường Giải Phóng, thị trấn P , huyện K , tỉnh Đắk Lắk, giá trị hợp đồng 2.100.000.00đ. Ngày 05/6/2015, hai bên ký Phụ lục hợp đồng về việc “mở rộng quy mô nhà hàng tiệc cưới tầng hầm 2”, giá trị Phụ lục hợp đồng là 312.000.000 đồng. Ngày 10/7/2015, hai bên tiếp tục ký Phụ lục hợp đồng gói thầu “mở rộng quy mô nhà hàng tiệc cưới”, giá trị Phụ lục hợp đồng là 562.000.000 đồng (sau đó hai bên điều chỉnh Phụ lục hợp đồng này từ 562.000.000 đồng xuống còn 524.000.000 đồng). Tổng giá trị Hợp đồng và Phụ lục hợp đồng là 2.946.000.000 đồng.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty T thừa nhận ông M , bà Th đã thanh toán cho công ty T 2.675.000.000 đồng, còn nợ 271.000.000 đồng, đến nay chưa thanh toán. Còn ông M , bà Th cho rằng tổng giá trị Hợp đồng và Phụ lục hợp đồng là 2.946.000.000 đồng; Ông, Bà đã tạm ứng cho Công ty T số tiền 2.689.425.000 đồng, còn lại 256.575.000 đồng chưa thanh toán. Lý do chưa thanh toán đủ số tiền thi công vì Công ty T thi công chậm tiến độ, công trình thi công không đảm bảo chất lượng, không khắc phục sửa chữa, không nhiệm thu bàn giao công trình nên Ông, Bà đã thuê đơn vị khác thực hiện với số tiền 168.000.000 đồng. Ông, Bà không đồng ý yêu cầu của Công ty T .
Xem xét các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, thấy:
[1]. Về chất lượng công trình và chi phí sửa chữa, khắc phục công trình:
Ông M , bà Th cho rằng chất lượng thi công chưa đảm bảo gây thấm dột, một số hạng mục chưa hoàn thành, Ông, Bà có yêu cầu Công ty T khắc phục nhưng Công ty không thực hiện; còn Công ty T cho rằng sau khi nhận được yêu cầu của ông M , bà Th về việc khắc phục những hạng mục chưa đảm bảo chất lượng, Công ty T có khắc phục; tuy nhiên Công ty T không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ thể hiện có khắc phục, sửa chữa theo yêu cầu của ông M , bà Th . Trong khi đó, bị đơn là ông M , bà Th trình bày và cung cấp chứng cứ thuê người khác thực hiện việc khắc phục những hạng mục chưa đảm bảo chất lượng của công trình, cụ thể: thuê ông Nguyễn Văn Kh đào đất, tô tường, làm bể phốt nước hầm cầu, lót gạch tam cấp sân khấu; ông Phạm Đình T , bà Nguyễn Thị V làm vệ sinh; ông Nguyễn M sơn trần; ông Nguyễn Văn Đ làm sân khấu; ông Chiến làm công ốp gạch tường; những người này đều thi công xong và viết giấy nhận tiền của bà Th tổng cộng 168.000.000 đồng. Các giấy nhận tiền trên đã được kiểm tra đối chiếu với bản gốc do bà Th xuất trình và có lời trình bày của ông Nguyễn Văn Kh xác nhận việc thi công cho bà Th . Đồng thời, Thừa phát lại Đắk Lắk tiến hành lập Vi bằng ghi nhận hiện trạng Nhà hàng tiệc cưới Như Ý, cụ thể: “Hiện trạng sụt, lún, gạch vỡ tại góc bên phải từ ngoài cổng chính vào, gạch ốp tường bị bong tróc, có hiện tượng xi măng nứt (sát thềm sảnh chính). Tầng hầm có hiện tượng thấm nước, tường mốc, ẩm ướt và đọng nước dưới nền gạch… Tầng 1 (khu Karaoke) gạch ốp chân tường bị bong rơi ra ngoài… Tầng 2: hai trụ trang trí giữa sảnh chính có vết nứt ngang giữa trụ… bên phải sảnh chính từ ngoài vào có 06 vết nứt trên tường… Tầng 3: góc phải sân khấu gạch ốp chân tường bị mất… Tường phía bên hông phải nhà hàng có xuất hiện nhiều vết nứt kéo dài ở vị trí tầng 1 và tầng 2 ”, kèm theo Vi bằng có 12 hình ảnh và 04 video ghi nhận sự việc trên. Như vậy, lời trình bày của ông M , bà Th là có cơ sở, phù hợp với Vi bằng do Thừa phát lại Đắk Lắk ghi nhận, phù hợp với các tài liệu do ông M , bà Th thuê người khác thực hiện công việc sửa chữa, khắc phục những hạng mục công trình chưa đảm bảo chất lượng, nên có cơ sở xác định chất lượng công trình xây dựng Nhà hàng tiệc cưới MT do Công ty T thi công chưa đảm bảo, còn phải sửa chữa, khắc phục nhiều hạn mục.
Căn cứ Điều 125 Luật xây dựng năm 2014 và Điều 35 Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 của Chính phủ về quản lý công trình và bảo trì công trình xây dựng thì Công ty T phải có trách nhiệm khắc phục, sửa chữa, bảo hành công trình xây dựng do mình thi công. Tuy nhiên, Công ty T không thực hiện nên ông M , bà Th phải thuê người khác khắc phục, sửa chữa. Lẽ ra khi giải quyết tranh chấp, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải xác minh, đánh giá tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ do ông M , bà Th cung cấp, nhưng Tòa án các cấp không thực hiện là thiếu sót, vì vậy cần phải xác minh làm rõ; trên cơ sở đó mới có căn cứ xác định chính xác số tiền ông M , bà Th chi ra sửa chữa, khắc phục những hạn mục công trình không đảm bảo chất lượng.
[2]. Về xác định giá trị thi công công trình:
Quá trình thi công, Công ty T phải có trách nhiệm thực hiện việc nghiệm thu, lập Nhật ký công trình để hai bên ký xác nhận tiến độ thi công, những công việc cụ thể thi công từ khi thi công cho đến khi bàn giao công trình đưa vào sử dụng theo thỏa thuận quy định tại Điều 6, Điều 7 Hợp đồng thi công xây dựng mà các bên đã ký. Đồng thời, khi bàn giao công trình xây dựng, nhà thầu thi công xây dựng phải giao cho chủ đầu tư các tài liệu gồm bản vẽ hoàn công, quy trình hướng dẫn vận hành, quy trình bảo trì công trình, danh mục các thiết bị, phụ tùng, vật tư dự trữ thay thế và các tài liệu cần thiết khác có liên quan theo quy định tại khoản 3 Điều 124 Luật xây dựng năm 2014. Song tại hồ sơ vụ án thể hiện Công ty T không lập Nhật ký công trình, không lập biên bản nghiệm thu từng phần và toàn bộ công trình, không cung cấp được bản vẽ hoàn công và các vấn đề khác nêu trên cho ông M , bà Th là vi phạm khoản 2 Điều 123 Luật Xây dựng năm 2014 và vi pham cam kết trong hợp đồng 2 bên ký kết nên chưa có cơ sở xác định số liệu về khối lượng thi công của Công ty T ? giá trị thi công bao nhiêu? để từ đó làm cơ sở cho việc thanh quyết toán, đưa công trình vào sử dụng.
[3]. Công ty T cho rằng Công ty có gửi cho ông M , bà Th thông báo nghiệm thu công trình ngày 26/8/2016 theo Phiếu báo phát ngày 09/12/2015; nhưng thấy rằng tại thời điểm tháng 12/2015, công trình đang thi công đến tháng 7/2016 mới ngừng thi công, nên việc Công ty T cho rằng có gửi Biên bản nghiệm thu công trình cho ông M , bà Th nhận là không đúng thực tế.
[4]. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông M , bà Th cho rằng chất lượng công trình không bảo đảm như: không sơn trần, không trét lớp sơn lót chống thấm hậu quả làm nước ngấm vào nhà, tầng hầm 2 không tô tường cũng như các biện pháp khắc phục khiến bị ngập lụt khi trời mưa… Ông M , bà Th có yêu cầu Tòa án xem xét thẩm định hiện trạng công trình xây dựng. Tòa án cấp sơ thẩm ra Quyết định xem xét thẩm định tại chỗ số 02/2017/QĐ-XXTĐTC ngày 02/8/2017 và có Giấy báo cho bị đơn sẽ xem xét thẩm định tại chỗ vào lúc 08h ngày 11/8/2017, nhưng thực tế Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, Tòa án cấp phúc thẩm cũng không thực hiện để xác định hiện trạng công trình xây dựng như thế nào? có đúng như lời khai của bị đơn trình bày hay không? mà chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn xác định công trình thi công đảm bảo chất lượng và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các đương sự, vi phạm thủ tục tố tụng quy định tại Điều 101 Bộ luật tố tụng dân sự.
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm thấy cần phải làm rõ các vấn đề nêu trên để làm cơ sở cho việc thanh quyết toán hợp đồng của các bên đương sự. Kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có cơ sở nên được chấp nhận.
QĐGĐT: 28/2019/DS-GĐT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại Quảng Ngãi:
359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0935 643 666 – 0906 499 446
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: FDVN CHANNEL