Feel free to go with the truth

Trang chủ / Nghiên cứu học tập / KINH NGHIỆM XÉT XỬ: QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM HỦY BẢN ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM, PHÚC THẨM VỤ ÁN TRANH CHÂP THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

KINH NGHIỆM XÉT XỬ: QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM HỦY BẢN ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM, PHÚC THẨM VỤ ÁN TRANH CHÂP THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

NHẬN ĐỊNH CỦA ỦY BAN THẨM PHÁN TÒA ÁN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG:

[1]. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự thể hiện thửa đất số 446, tờ bản đồ số 12, diện tích 2.144m đất tại xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi đang tranh chấp thừa kế là của cụ T và cụ N. Cụ N và cụ T là vợ chồng nên theo Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì thửa đất số 446 tranh chấp là tài sản chung của cụ T và cụ N. Bà K thừa nhận đất tranh chấp là của cụ T, nhưng cho rằng khi cụ T còn sống, cụ N không ở chung với cụ T trên thửa đất số 446 nên cụ N không có quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 446 là không phù hợp với quy định của pháp luật.

[2]. Cụ T chết năm 1984, tính đến thời điểm bà H khởi kiện yêu cầu chia thừa kế ngày 10/6/2010 là đã hết thời hiệu đối với phần di sản của cụ T; cụ N chết năm 2006, tính đến thời điểm bà H khởi kiện chia thừa kế ngày 10/6/2010 là còn thời hiệu để chia thừa kế theo quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 nên Tòa án các cấp xác định % diện tích đất tranh chấp là di sản của cụ T đã hết thời hiệu chia thừa kế và đình chỉ giải quyết phần di sản thừa kế của cụ T là có cơ sở. Diện tích đất là di sản của cụ N và chia cho các đồng thừa kế là đúng quy định của pháp luật.

[3]. Tuy nhiên, Bản án dân sự sơ thẩm và Bản án dân sự phúc thẩm có một số thiếu sót như sau:

[3.1]. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà K không yêu cầu chia thừa kế, không yêu cầu tính công sức đóng góp; vì bà K cho rằng bà đã ở trên diện tích đất tranh chấp từ năm 1975 cho đến nay và diện tích đất tranh chấp là của Bà nên đề nghị không chia thừa kế theo yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, trình bày và đề nghị xác định quyền lợi của bà K là lớn hơn yêu cầu chia thừa kế và yêu cầu tính công sức nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét công sức cho bà K và Tòa án cấp phúc thẩm hủy phần chia di sản cho bà K là không phù hợp và không giải quyết triệt để vụ án.

[3.2]. Tại thời điểm Ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định số 945/QĐ-UB ngày 26/12/2000 về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 446 cho cụ N thì ngoài diện tích đất thuộc quyền sử dụng của cụ N, còn có % diện tích đất thuộc di sản của cụ T, nhưng khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ N không có ý kiến đồng ý của tất cả các người thừa kế của cụ T là trái quy định. Mặt khác, theo Điều 32a Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi năm 2011 và Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2014 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp về hướng dẫn thi hành Điều 32a của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Bộ luật tố tụng dân sự quy định “Khi giải quyết vụ việc dân sự, Toà án có quyền hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết” nhưng Tòa án cấp sơ thẩm nhận định đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi giải quyết khiếu nại nên không xem xét giải quyết là chưa đúng.

[3.3]. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất, không yêu cầu chia tài sản trên đất nhưng Tòa án chưa làm rõ tài sản trên đất là của ai; các đồng thừa kế và chủ tài sản trên đất có thống nhất quyền sở hữu tài sản trên đất là của người được chia hay không nhưng quyết định quyền sở hữu đối với tài sản trên đất cho người được chia đất là không phù hợp với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.

[4]. Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị số 19/2021/KN-DS ngày 29/3/2021 củaChánh ánTòa án nhân tối cao; hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 41/2016/DS-PT ngày 30/3/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2015/DS-ST ngày 29/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

Quyết định số: 50/2021/DS-GĐT

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: FDVN CHANNEL

 

Bài viết liên quan