NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Bà Xiong B là lao động nước ngoài, làm việc tại Công ty TNHH C từ năm 2008 theo Hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Ngày 01/10/2015, bà Xiong B đăng ký xin nghỉ phép năm 2015 (thời gian dự kiến nghỉ từ ngày 30/10/2015 đến ngày 10/11/2015). Ngày 17/10/2015, Công ty C đã đặt vé máy bay cho bà B về Trung Quốc từ ngày 30/10/2015 đến ngày 10/11/2015. Tiếp đó, tại các cuộc họp ngày 24/10/2015 và ngày 27/10/2015 với Ban quản lý Công ty C, bà B đã thông báo lại lịch nghỉ phép, tiến độ công việc và việc bàn giao công việc khi nghỉ phép; Ban quản lý Công ty không có ý kiến phản đối gì. Như vậy, việc nghỉ phép của bà B đã được Công ty C chấp thuận. Do đó, việc ngày 29/10/2015, Công ty C đột ngột hủy vé máy bay đã đặt cho bà B, đồng thời yêu cầu bà B hoãn đợt nghỉ phép là không đúng.
[2]. Quá trình giải quyết vụ án, đại diện của Công ty C có lúc cho rằng do bà B nghỉ phép không được sự đồng ý của Công ty, nên đã bị Công ty sa thải từ ngày 05/11/2015; lúc khác lại cho rằng Công ty không sa thải bà B, mà là do bà B tự ý bỏ việc nên bị Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Tuy nhiên, sa thải và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là hai hình thức kết thúc hợp đồng lao động khác nhau và dựa trên những căn cứ pháp luật khác nhau. Trong vụ án này, Công ty C dù đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hay sa thải bà B đều là trái với các quy định tại Điều 38, Điều 126 Bộ luật Lao động.
[3]. Bà B xin nghỉ phép đã có sự thông báo trước, được Công ty C chấp thuận (thể hiện ở việc đã đặt vé máy bay cho bà B và không có ý kiến nào phản đối việc nghỉ phép của bà B). Tuy nhiên, ngay khi bà B chưa hết thời gian nghỉ phép, Công ty C đã thông báo cho bà B nghỉ việc; khi bà B quay trở lại làm việc thì Công ty C đã yêu cầu bảo vệ cản trở không cho bà vào làm việc. Công ty C cho rằng bà B tự ý nghỉ việc, vi phạm nội quy Công ty nhưng lại không cung cấp được hồ sơ xử lý kỷ luật lao động bà B. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định Công ty C đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với bà B và chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: “… Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động”. Tuy nhiên, Công ty C không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà B là đúng theo quy định tại Điều 36 Bộ luật lao động. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Công ty C không sa thải bà B, mà do bà B tự ý bỏ việc, nên bị Công ty C đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là không phù hợp với những tình tiết khách quan có trong vụ án.
Quyết định GĐT: 05/2020/LĐ-GĐT