Feel free to go with the truth

Trang chủ / Nghiên cứu học tập / KINH NGHIỆM XÉT XỬ: QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN TỐI CAO HỦY BẢN ÁN VỤ ÁN DÂN SỰ “TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN; HỦY HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT; HỦY QUYẾT ĐỊNH CÁ BIỆT; HỦY HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP” 

KINH NGHIỆM XÉT XỬ: QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN TỐI CAO HỦY BẢN ÁN VỤ ÁN DÂN SỰ “TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN; HỦY HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT; HỦY QUYẾT ĐỊNH CÁ BIỆT; HỦY HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP” 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguồn gốc nhà đất tại số 49 Lương Hữu Khánh, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng là do ông Hoàng Anh Trinh (ông Trinh là Việt kiều, định cư tạo Mỹ) gửi tiền nhờ ông Nguyễn Văn Minh mua đất, làm nhà và đứng tên hộ vào năm 2007. Năm 2009, ông trinh về Việt Nam sinh sống nên ông Minh đã giao lại nhà đất nêu trên cho ông trinh quản lý, sử dụng. Tháng 8/2012, ông Trinh sống chung (không đăng ký kết hôn) với bà Ngô Thị Bảo Toàn. Sau khi cưới, bà Toàn về ở cùng ông Trinh tại nhà đất nói trên.

[2] Ngày 16/01/2013, vợ chồng ông Minh lập Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất nêu trên cho bà Toàn với giá trị chuyển nhượng là 1.000.000 đồng. Bà Toàn cho rằng việc chuyển nhượng nhà đất nêu trên giữa vợ chồng ông Minh với bà là để cấn trừ khoản tiền 20.000 USD và 600.000.000 đồng tiền Việt Nam mà ông Trinh nhận của bà nhưng ông Trinh không thừa nhận, còn bà Toàn không đưa ra được tài liệu chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của mình. Đồng thời, ngày 16/01/2013, ông Trinh và bà Toàn lập “Giấy cam kết” có nội dung ông Minh chuyển nhượng nhà đất cho bà Toàn với “số tiền là 1 triệu để hợp thức hóa giấy tờ Hợp đồng (số tiền không có thực)”. Như vậy, mặc dù hai bên có lập hợp đồng chuyển nhượng nhưng trên thực tế thì không có việc giao, nhận tiền; giao, nhận nhà và đất. Nhà và đất này vẫn do ông Trinh quản lý, sử dụng cho đến nay nên có đủ căn cứ để xác định không có việc chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng ông Minh với bà Toàn mà giao dịch giữa hai bên thực chất là nhờ bà Toàn đứng tên hộ. Do đó, có cơ sở xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liện với đất ngày 16/01/2013 giữa vợ chồng ông Minh, bà Hường với bà Toàn đối với nhà đất tại số 49 Lương Hữu Khánh, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng là giao dịch giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác theo quy định tại Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2005 là việc ông Trinh nhờ ông Minh, bà Hường, sau là bà Toàn đứng tên nhà đất.

[3] Ngày 21/05/2016 tại Văn phòng công chứng Phạm Văn Khánh, bà Toàn đã chuyển nhượng nhà đất nêu trên cho bà Vũ Thị Huệ với giá chuyển nhượng là 900.000.000 đồng (theo bà Huệ thì giá thực tế là 4.850.000.000 đồng). Ngày 23/05/2016, bà Huệ được chỉnh lý biến động đứng tên nhà đất tại số 49 Lương Hữu Khánh. Ngày 24/05/2016, bà Huệ thế chấp nhà đất này cho Ngân hàng Á Châu để đảm bảo cho khoản vay 2.600.000.000 đồng.

[4] Xét thấy, thời điểm bà Toàn chuyển nhượng nhà đất trên cho bà Huệ thì tài sản này đang có tranh chấp. Thể hiện việc ngày 30/05/2015, bà Toàn có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Trinh phải trả lại nhà đất trên cho bà. Ngày 16/06/2015, tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng thụ lý giải quyết vụ án. Ngày 18/08/2015, ông Trinh có đơn phản tố. Ngày 15/06/2016, bà Toàn có đơn xin rút đơn khởi kiện. Như vậy, việc bà Toàn tự ý chuyển nhượng nhà đất khi đang có tranh chấp là trái với quy định của pháp luật nên hợp đồng chuyển nhượng giữa bà toàn với bà Huệ vô hiệu và do Ngân hàng Á Châu không thẩm định ai là người đang quản lý, sử dụng tài sản khi nhận tài sản thế chấp từ bà Huệ là có lỗi nên Hợp đồng thế chấp tài sản số STR.BDDCN240516 ngày 24/05/2016 giữa bà Huệ với Ngân hàng Á Châu cũng vô hiệu.

[5] Như vậy, có căn cứ xác định hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng ông Minh, bà Hường với bà Toàn; hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa bà Toàn với bà Huệ và hợp đồng thế chấp tài sản giữa bà Huệ với Ngân hàng Á Châu là vô hiệu, nên yêu cầu của ông Trinh về việc hủy các hợp đồng này và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BN024762 do sở Tài Nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 17/07/2013 cho bà Ngô Thị Bảo Toàn, được chỉnh lý biến động sang tên cho bà Vũ Thị Huệ ngày 23/05/2016 là có cơ sở để chấp nhận nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trinh là không đúng.

Quyết định GĐT: 12/2021/DS-GĐT

Bài viết liên quan