Feel free to go with the truth

Trang chủ / Nghiên cứu học tập / KINH NGHIỆM XÉT XỬ: BẢN ÁN PHÚC THẨM SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN CHO DÒNG HỌ

KINH NGHIỆM XÉT XỬ: BẢN ÁN PHÚC THẨM SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN CHO DÒNG HỌ

 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

[1] Nguyên đơn ông Võ Văn L khởi kiện cho rằng: Thửa đất số 976, tờ bản đồ số 9, có diện tích theo đo đạt, thẩm định là 256,7m2, có nguồn gốc của phái nhất, tộc Võ sử dụng làm nhà thờ phái đã hơn 200 năm để và được sửa chữa nhiều lần và năm 1994, do nhà thờ hư hỏng nên bà con trong họ góp tiền để sửa chữa lại nhà thờ phái và sử dụng cho đến nay. Do vậy, yêu cầu Tòa án buộc bị đơn trả đất và tài sản trên đất thuộc thửa đất 976, tờ bản đồ số 9, tại thôn H4 Tây, xã Q1, huyện Q lại cho phái nhất tộc Võ tại thôn H4 Tây (thôn H4 mới), xã Q1, huyện Q, tỉnh Quảng Nam theo diện tích sau đo đạt, thẩm định là 256,7m2. Lời khai của nguyên đơn không được bị đơn công nhận; các cây lâu năm không phải do nguyên đơn trồng trên đất (của các ông bà Nguyễn Văn M, Võ Văn 2, Phan Thị Ba…); đồng thời, ngoài lời khai của các nhân chứng là những người trong họ tộc và phần diện tích sử dụng đang tồn tại ngôi nhà thờ được xây dựng năm 1994, tôn tạo thêm vào năm 2017 (bình phong công trình kiến trúc liên quan) thì nguyên đơn cũng không có được chứng cứ để chứng minh việc nguyên đơn quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích 256,7m2. Do đó, khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn L cho rằng toàn bộ diện tích 256,7m2 (thửa đất số 976, tờ bản đồ số 9) của phái nhất, tộc Võ là chưa đủ căn cứ để tin cậy.

[2] Lời khai của bị đơn bà Hoàng Thị Ngọc A và các ông, bà Võ Thị Thùy Tr, Võ Huy C1 cho rằng đất tranh chấp là của bị đơn và có nguồn gốc thuộc vườn ở và nhà ở của ông Võ Huy C3 (ông nội) và cha mẹ bị đơn là Võ Văn M1, Nguyễn Thị V1 để lại cho bị đơn; lời khai của bị đơn và lời khai của bà Tr, ông C1 phù hợp với hình ảnh ngôi nhà cũ do bị đơn cung cấp, phù hợp với lời khai của những người làm chứng: Phạm Đình Th, Phạm S1 (Ban điều hành phái N4), Võ Văn Q và Võ Văn H và phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Võ Huy L1 (đã chết) và bà Hoàng Thị Ngọc A; đó là:

  • Phiếu lấy ý kiến của khu dân cư ngày 30/5/2015 đã: “thống nhất xác định: Đất do thừa kế của cha mẹ …thời điểm bắt đ u sử dụng năm 1994…”.
  • Biên bản xác định mốc giới ngày 29/5/2015; đã được các chủ sử dụng đất tiếp giáp xác định ranh giới thửa đất 976, tờ bản đồ số 9 của gia đình ông Võ Huy L1 và không có tranh chấp.
  • Biên bản họp Hội đồng tư vấn xã Q1 ngày 01/6/2015, đã xác định: “Nguồn gốc đất …do cha mẹ để lại và ông L1 bắt đ u sử dụng từ năm 1994… Hội đồng tư vấn đất xã Q1 thống nhất cho gia đình ông Võ Huy L1 được cấp giấy chứng nhận  SD đất…
  • Xác nhận của UBND xã Q1 tại tờ khai thời gian sử dụng đất ngày 29/5/2015 là của ông Võ Huy L1: “Đất do vợ chồng ông thừa kế của cha mẹ… và bắt đ u sử dụng từ năm 1994”.

Đồng thời, tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 21/01/2021 thể hiện: Trên một phần thửa đất 976, ngoài sự tồn tại một ngôi nhà thờ của dòng họ Phái nhất tộc Võ xây dựng vào năm 1994 thì trên đất còn có 01 nền nhà cũ của gia đình bị đơn: “Ngoài ra, bên hông nhà thờ (bên phải nhìn từ ngoài vào) có  một nền nhà cũ. Mặt khác, tại các biên bản giải quyết đơn tranh chấp của bà A tại UBND xã Q1 vào các ngày 04/3/2020 và 13/3/2020; đại diện các thành viên của dòng họ Võ thuộc Phái nhất tộc Võ tại thôn H4, xã Q1 (gồm ông: Võ Văn L- Nguyên đơn và các ông Võ Huy L1, Võ X1, Võ Th) đã đồng ý, thỏa thuận với nội dung “gia đình bà A thống nhất hiến 1 ph n đất trong khuôn viên vườn của mình để làm nhà thờ Phái nhất với diện tích 27,6m2 (chiều ngang 4m, chiều dài 6,9m) đã trừ đất hành lang kênh P2 theo quy định”, hai bên có trách nhiệm phối hợp để làm giấy tờ liên quan đến đất nhà thờ phái…” và sau khi có các thỏa thuận ngày 04/3/2020, 13/3/2020 Phái nhất Tộc Võ tại thôn H4, xã Q1 đã tiến hành đổ vật liệu, đào móng chuẩn bị xây dựng…là đã thể hiện nguyên đơn thừa nhận quyền sử dụng đất của bị đơn đối với diện tích đất tranh chấp. Ngoài ra, trong quá trình sử dụng đất, gia đình bị đơn đã tiến hành đổ đất san nền, xây dựng tường rào bao bọc diện tích đất tranh chấp từ năm 2016 nhưng nguyên đơn cũng như Phái nhất tộc Võ không có tranh chấp, khiếu nại hoặc khởi kiện nên cũng là đã chấp nhận quyền sử dụng đất của bị đơn. Do đó, bị đơn cho rằng diện tích 256,7m2 đất tranh chấp (thửa đất số 976, tờ bản đồ số 9) là của bị đơn và có nguồn gốc do ông bà, cha mẹ để lại là có căn cứ chấp nhận.

Tuy nhiên, hiện nay trên diện tích đất tranh chấp 256,7m2  đang tồn tại ngôi nhà thờ của Phái nhất dòng tộc Võ xây được xây dựng năm 1994 (tôn tạo thêm vào năm 2017) và theo lời khai của bị đơn về việc cha của bị đơn là ông Võ Mạo cũng như các thành viên trong gia đình (trong đó có vợ chồng ông Võ Huy L1) tự nguyện chuyển quyền sử dụng đất để xây dựng nhà thờ họ Phái nhất tộc Võ: “cha tôi đồng cho chi phái nhất dựng ngôi nhà thờ …”, “trong diện tích 256,7m2 cha tôi là ông Mạo cùng một số bà con trong chi nhì phái nhất người góp công, người góp của xây dựng nhà thờ phái…” là đã chấp nhận phạm vi sử dụng đất làm nhà thờ là một phần thửa đất tranh chấp là của Phái nhất dòng tộc Võ và chấp nhận một phần diện tích đất còn lại là của gia đình bị đơn. Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 21/01/2021, ngày 22/10/2021 và sơ đồ hiện trạng sử dụng đất do Chi nhánh văn phòng Đăng ký đất đai huyện Q lập ngày 21/02/2022 (Thực hiện theo yêu c u của TAND tỉnh Quảng Nam tại văn bản số 10/CV-DS ngày 17/02/2022) thể hiện phạm vi hiện trạng diện tích đất có ngôi nhà thờ của Phái nhất dòng tộc Võ có diện tích là 94,80m2 (gồm diện tích nhà thờ, bình phong và đất phía trước nhà thờ…) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm giao cho Phái nhất dòng tộc Võ cả diện tích đất phía sau không có vật kiến trúc, cây lâu năm.. của nhà thờ là không đúng và không phù hợp với nội dung mà gia đình bị đơn chấp nhận như đã nhận định nêu trên. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn; công nhận diện tích đất 94,80m2 là của Phái nhất dòng tộc Võ và phần diện tích đất tranh chấp còn lại 161,9m2 là của gia đình bị đơn Hoàng Thị Ngọc A.

[3] Nguyên đơn thừa nhận bị đơn đổ đất, san lấp mặt bằng như hiện nay nhưng không chấp nhận khối lượng đất san lấp và đơn giá do bị đơn yêu cầu. Bị đơn không có tài liệu, chứng cứ chứng minh khối lượng đất san lấp cũng như đơn giá: “chồng tôi làm, chồng tôi về nói lại với tôi là 120.000 đồng /m3”. Bên cạnh đó, theo lời khai của bị đơn thì bị đơn đổ đất là để san lấp hố bom và các hố do nhân dân lấy đất xây dựng thủy lợi tạo nên nên không đủ căn cứ để tiến hành xác định vị trí san lấp và không thể xác định khối lượng đất đổ vào san lấp.

Bị đơn san lấp mặt bằng đất tranh chấp trong phạm vi một phần diện tích đất tranh chấp ở phía trước ( ph n diện tích 94,80m2) và một phần nằm trong hành lang của kênh thủy lợi (11,01m X 21m) nên việc Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị đơn và xác định phần diện tích đất phía sau nhà thờ 34,7 m2 của bị đơn không ảnh hưởng đến quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về việc buộc nguyên đơn thối trả giá trị tiền san ủi, tôn tạo đất cho gia đình bị đơn 232m3 đất X 100.000 đồng/m3 = 23.200.000 đồng. Do xác định phần đất phía sau nhà thờ 34,7m2 là của gia đình bị đơn nên hàng rào của gia đình bị đơn xây dựng nằm trên phần diện tích của Phái nhất dòng tộc Võ có chiều dài là 18,43m được giao cho Phái nhất dòng tộc Võ sở hữu và Phái nhất dòng tộc Võ có trách nhiệm thối trả cho gia đình bị đơn giá trị hàng rào 18,43m là 2.230.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền nguyên đơn có trách nhiệm thối trả cho gia dình bị đơn là 25.430.000 đồng.

[4] Như đã nhận định [1] và [2]; trên một phần thửa đất 976, tờ bản đồ số 9 đã tồn tại một ngôi nhà thờ của Phái nhất dòng tộc Võ tại thôn H4, xã Q1 và diện tích ngôi nhà thờ được xây dựng từ năm 1994, được tu bổ sử dụng vào việc thờ cúng cho đến nay nhưng Ủy ban nhân dân huyện Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Huy L1 và bà Hoàng Thị Ngọc A toàn bộ diện tích của thửa đất 976, tờ bản đồ số 9 là không đúng hiện trạng sử dụng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân huyện Q đã cấp cho ông Võ Huy L1 và bà Hoàng Thị Ngọc A liên quan đến diện tích đất đang sử dụng của Phái nhất tộc Võ tại thôn H4 là đúng quy định tại Điều 26, 100 Luật Đất đai năm 2013.

[5] Từ nhận định trên, HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bà Hoàng Thị Ngọc A. Do chấp nhận kháng cáo nên bà Hoàng Thị Ngọc A không phải chịu án phí phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo và kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.

Bản án số: 140/2022/DS-PT

—————

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan