Feel free to go with the truth

Trang chủ / Nghiên cứu học tập / KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Chuyển giá gây nên nhiều hệ lụy, làm thất thu ngân sách nhà nước, gây nên bất ổn nền kinh tế, tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh. Do đó, kiểm soát hoạt động chuyển giá sẽ góp phần đảm bảo số thu cho ngân sách nhà nước, tạo nên sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Việt Nam là quốc gia đang trong quá trình hội nhập, việc tiếp thu những kinh nghiệm kiểm soát hoạt động chuyển giá của các quốc gia có nền kinh tế phát triển sẽ giúp hoàn thiện hành lang pháp lý, kiểm soát hoạt động chuyển giá và thực hiện tốt công tác kiểm soát hoạt động chuyển giá.

1. Kinh nghiệm từ một số nước

Mỹ

Các quy định về giá chuyển giao đã trở thành một phần trong luật thuế của Mỹ kể từ thời chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Khởi đầu là phần 482 của Luật Thu nội địa (IRC) ban hành năm 1968. Tháng 10/1988, Cơ quan Thuế nội địa Mỹ (IRS) đề nghị hai phương pháp nhằm thiết lập tiêu chuẩn cân xứng với thu nhập. Một là, dựa trên phân tích các giao dịch có thể so sánh.

Hai là, dựa trên việc tách lợi nhuận giữa các bên có liên kết. Tháng 1/1992, IRS ban hành quy định giới thiệu ba phương pháp định giá mới, tất cả dựa trên việc đối chiếu các tài liệu về kết quả giao dịch. Tháng 1/1993, IRS ban hành quy định tạm thời. Ngày 1/7/1994, quy định chính thức được ban hành, có hiệu lực từ ngày 8/7/1994 cho đến nay. Mỹ rất quan tâm đến vấn đề kiểm soát chuyển giá của các công ty đa quốc gia. Điều này thể hiện trên các giác độ sau:

Một là, Mỹ quan tâm đến khung pháp lý điều chỉnh định giá chuyển nhượng trong nội bộ tập đoàn. Điều đó thể hiện rõ nét trong Bộ luật thu nội địa của Mỹ và các văn bản hướng dẫn của Cục Thu nội địa điển hình các văn bản đó có tên gọi là “Sách Trắng”. “Sách Trắng” hướng dẫn các phương pháp định giá chuyển nhượng căn bản dựa trên phương pháp lợi nhuận. Phương pháp này xem xét giới hạn lợi nhuận ròng trong mối quan hệ với các chỉ tiêu: giá, phí, doanh số bán hàng, lợi nhuận mà đối tượng nộp thuế thực hiện từ hoạt động chuyển giao kiểm soát được.

Hai là, đi đôi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý, IRS cũng đã xác định rõ đối tượng áp dụng điều chỉnh chuyển giá là các công ty liên kết tham gia kinh doanh quốc tế. Các đối tượng đó là: (i) Các doanh nghiệp (DN) Mỹ nắm giữ và kiểm soát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp một DN ở nước ngoài; (ii) Các DN Mỹ dưới sự nắm giữ và kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp của một DN nước ngoài; (iii) DN cùng với một hoặc nhiều DN nước ngoài cùng chịu sự kiểm soát chung của một DN hay một tập đoàn nước ngoài. Tác dụng của việc xác định đối tượng là nhằm giới hạn phân vùng các DN trong quá trình xem xét điều tra và đồng thời được coi là biện pháp để chống lại hình thức chuyển giá với mục đích giảm nghĩa vụ thuế.

Ba là, sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp điều chỉnh giá chuyển nhượng. Những phương pháp mà Mỹ thường sử dụng là: (i) Phương pháp so sánh giá thị trường tự do; (ii) Phương pháp dựa vào giá bán ra; (iii) Phương pháp cộng chi phí vào giá vốn; (iv) Phương pháp phân chia lợi nhuận; (v) Phương pháp so sánh lợi nhuận.

Bốn là, thực hiện bắt buộc xuất trình các tài liệu minh chứng. Điểm nổi bật ở Mỹ trong những năm qua trong quá trình triển khai là ban hành các quy tắc điều chỉnh hoạt động nghiệp vụ của các bên liên kết. Theo đó, các quy tắc này đòi hỏi công ty phải xuất trình các tài liệu minh chứng cần thiết để xác định kết quả các nghiệp vụ chuyển giao giữa các công ty liên kết.

Năm là, coi trọng các biện pháp xử lý khi có bằng chứng vi phạm. Khi cơ quan thuế chứng minh được có sự vi phạm trong việc định giá chuyển giao nhằm trốn thuế thì cơ quan thuế có quyền điều chỉnh lại thu nhập của đối tượng nộp thuế và áp dụng mức phạt từ 20-40% số thuế khai thiếu bị phát hiện do gian lận qua định giá chuyển giao.

Sáu là, cùng với việc bổ sung các quy định pháp lý, chỉ riêng trong năm 2009, cơ quan thuế của Mỹ đã tuyển thêm 1.200 nhân viên và năm 2010 là 800 nhân viên để thực hiện việc rà sóat, giám sát giá chuyển nhượng. Công tác thanh tra chuyển giá cũng được thực hiện trong 5 nhóm ngành chính của Mỹ đó là: thông tin liên lạc, công nghệ và truyền thông, nhóm ngành bán lẻ, thực phẩm, dược và nhóm ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe.

Pháp

Cũng như Mỹ, ở Pháp việc điều chỉnh định giá chuyển giao của các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đều được quy định trong Bộ Luật thuế của Pháp. Trong Bộ Luật thuế có quy định: Trường hợp hai DN phụ thuộc một nằm trên lãnh thổ Pháp một nằm trên lãnh thổ ngoài nước Pháp thỏa thuận lợi ích gây thiệt hại cho quốc gia thông qua lợi dụng định giá chuyển nhượng thì cơ quan thuế có quyền điều chỉnh tất cả giá chuyển nhượng bất thường giữa các công ty cùng một tập đoàn.

Các phương pháp áp dụng định giá chuyển giao mà Pháp áp dụng, về cơ bản, dựa trên nguyên tắc giá thị trường khách quan hoặc giá giao dịch giữa các DN không liên kết (DN độc lập). Cụ thể là: (i) Phương pháp so sánh giá thị trường tự do; (ii) Phương pháp dựa vào giá bán ra; (iii) Phương pháp cộng chi phí vào giá vốn; (iv) Phương pháp phân chia lợi nhuận. So với Mỹ việc áp dụng các phương pháp định giá chuyển giao ở Pháp có hai điểm nổi bật: (i) Coi trọng các phương pháp dựa vào giao dịch được ưu tiên hơn phương pháp dựa vào lợi nhuận; (ii) Đối tượng nộp thuế được tự do lựa chọn phương pháp định giá, song phải giải trình rõ lý do lựa chọn, không bắt buộc phải áp dụng nhiều phương pháp.

Về xuất trình các tài liệu minh chứng: Cơ quan thuế Pháp không đòi hỏi người nộp thuế phải giải trình khi nộp tờ khai thuế về các tài liệu liên quan đến việc định giá chuyển giao. Chỉ trong trường hợp thanh tra về giá chuyển nhượng thì cơ quan thuế mới yêu cầu người nộp thuế phải trả lời các câu hỏi và xuất trình các tài liệu minh chứng có liên quan về những vấn đề như: thông tin của tập đoàn về mạng lưới sản xuất, phân phối trên thế giới, thông tin chi tiết giá vốn hàng bán và chi phí marketing, các tài liệu phân tích rủi ro….

Pháp coi trọng các biện pháp xử lý khi phát hiện những vi phạm. Khi cơ quan thuế kiểm tra phát hiện những vi phạm có đủ bằng chứng mà người nộp không giải trình được thì cơ quan thuế có quyền điều chỉnh lại thu nhập và áp dụng mức phạt từ 40-80% số thuế trốn lậu do thủ thuật định giá chuyển giao.

Trung Quốc

Về pháp luật điều chỉnh chuyển giá hiện nay Trung Quốc đang áp dụng chủ yếu theo các luật sau: Luật Thuế TNDN (2007); Thực hiện Quy phạm pháp luật thuế TNDN (2007); Thông tư Guoshuifa số 2 (2009). Các quy định pháp luật này cung cấp cho Cục thuế Nhà nước (SAT) cơ sở để điều chỉnh thu nhập chịu thuế của người nộp thuế khi họ thực hiện các giao dịch với các bên liên kết chưa đúng theo nguyên tắc giá thị trường. Luật Thuế TNDN cũng yêu cầu những người nộp thuế có liên quan đến giao dịch với các bên liên kết phải gửi tài liệu trình bày rõ về giao dịch với bên liên kết đó cùng với tờ khai thuế hàng năm của họ.

Người nộp thuế cũng được yêu cầu nộp các tài liệu liên quan về giao dịch với các bên liên kết như giá cả, tiêu chuẩn xác định chi phí, phương pháp tính toán và giải thích khi được kiểm toán. Luật Thuế TNDN quy định như sau: các DN có các giao dịch tài sản hữu hình liên quan đến các bên liên kết có giá trị hằng năm trên 200 triệu NDT hoặc có các giao dịch giữa các bên liên kết trên 40 triệu NDT phải chuẩn bị tài liệu để giải trình rõ.

Các quy định chống chuyển giá của Trung Quốc cũng xây dựng dựa trên cở sở hướng dẫn của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Tuy nhiên, Luật Chống chuyển giá của Trung Quốc có một số điểm khác cơ bản so với Luật Chống chuyển giá của Mỹ, đó là:

(i) Nghĩa vụ nộp thuế ở Trung Quốc không được hợp nhất, nếu một tập đoàn kinh tế có các chi nhánh tại các tỉnh thành khác nhau của Trung Quốc sẽ chịu thanh tra về thuế chống chuyển giá nhiều lần;

(ii) Khi cơ quan thuế của tỉnh này chấp nhận một vấn đề nào đó về thuế thì chưa chắc cơ quan thuế ở địa phương khác chấp nhận. Điều này khác hoàn toàn nếu các tập đoàn kinh tế có nhiều chi nhánh tại Mỹ, các vấn đề về thuế được cơ quan thuế tiểu bang chấp nhận thì xem như là được chấp nhận tại các tiểu bang khác;

(iii) Nếu bị xác định là có hành vi chuyển giá tại công ty, thì các điều chỉnh về định giá chuyển giao do cơ quan thuế Trung Quốc đưa ra sẽ được áp đặt cho tất cả các loại thuế có liên quan như: thuế TNDN, thuế GTGT, thuế xuất nhập khẩu… trong khi tại Mỹ chỉ áp đặt tính lại thuế TNDN;

(iv) Tại Mỹ, các chỉ số về mức nâng giá hợp lý do cơ quan thuế lập nên dựa trên các nguồn thông tin đại chúng và mọi người đều biết, nhưng tại Trung Quốc thì cơ quan thuế nước này xây dựng các nguồn dữ liệu từ việc so sánh bí mật…

Trung Quốc cũng đưa ra các biện pháp xử phạt cụ thể đối với hành vi chuyển giá. Điều 60-73 của Luật Quản lý thuế quy định rằng, hành vi vi phạm luật có thể bị phạt tiền, và những vi phạm nghiêm trọng như trốn thuế, gian lận thuế có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Luật Thuế TNDN Trung Quốc cũng nêu rõ, từ sau ngày 1/1/2008, các khoản thuế bị tính thiếu liên quan đến giao dịch giữa các bên liên kết sẽ bị lãi. Lãi suất được tính bằng lãi suất cho vay cơ bản NDT của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc cùng kỳ cộng 5% phí. Tuy nhiên, nếu DN cung cấp được các tài liệu và thông tin liên quan khác theo quy định này thì 5% phí tăng thêm này có thể được giảm bớt hoặc loại bỏ hoàn toàn.

2. Bài học cho Việt Nam

Qua nghiên cứu kinh nghiệm kiểm soát giá của một số quốc gia châu Á và từ hoạt động chuyển giá của một số công ty lớn trên thế giới, chúng ta có thể rút ra một vài kinh nghiệm kiểm soát chuyển giá có thể áp dụng cho Việt Nam như sau:

Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kinh tế nói chung, pháp luật về kiểm soát chuyển giá nói riêng nhằm sẵn sàng cho việc tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho sự phát triển kinh tế là điều kiện tiên quyết để kiểm soát tốt hành vi chuyển giá. Pháp, Mỹ và Trung Quốc các nước châu Á kể trên đều quan tâm đến việc xác định rõ ràng đối tượng áp dụng những quy định trong luật thuế về định giá chuyển giao, các phương pháp định giá chuyển giao và các trình tự thủ tục để kiểm soát chuyển giá.

Thứ hai, xây dựng các chính sách thuế phù hợp với tình hình trong nước đồng thời đáp ứng với yêu cầu của hội nhập và xu thế chung của khu vực và thế giới (xu hướng của các nước châu Á – Thái Bình Dương những năm gần đây là giảm mức thuế suất thuế TNDN). Chính sách thuế được xây dựng phải đảm bảo mục tiêu công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế, tạo nguồn thu cho ngân sách đồng thời kích thích thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Thứ ba, trong kiểm soát hoạt động chuyển giá, cần đặc biệt chú trọng đến quy định về trách nhiệm kê khai thông tin liên quan đến mối quan hệ kinh tế với DN liên kết và việc xuất trình các tài liệu minh chứng. Hầu hết các nước kể trên đều quy định khi nộp tờ khai thuế TNDN các DN phải kê khai các thông tin liên quan đến các giao dịch với các bên có quan hệ liên kết.

Thứ tư, bên cạnh tăng cường thu hút vốn FDI, cần nâng cao tính hiệu quả của quá trình thẩm định dự án. Nếu công tác thẩm định dự án đầu tư được thực hiện tốt có thể phát hiện kịp thời hành vi chuyển giá qua việc nâng giá trị vốn góp của các công ty đa quốc gia.

Thứ năm, cần có sự đầu tư bài bản và thường xuyên để có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu quản lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đội ngũ cán bộ này cần thường xuyên cập nhập kiến thức về kinh tế, kinh nghiệm quản lý và kiểm soát hoạt động chuyển giá của các công ty đa quốc gia trên thế giới.

Thứ sáu, nghiêm túc nghiên cứu vận dụng các phương pháp định giá chuyển giao do OECD đề xuất, tùy theo điều kiện cụ thể mỗi nước, chủ yếu là áp dụng 3 phương pháp truyền thống. Mỗi nước đều có những khác biệt nhất định trong áp dụng các phương pháp định giá chuyển giao, song tựu trung lại các nước đều vận dụng có chọn lọc phương pháp định giá chuyển giao của OECD.

Thứ bảy, cần xây dựng một hệ thống chế tài nghiêm minh và tổ chức thực hiện nghiêm túc những vi phạm của DN về pháp luật trong lĩnh vực kiểm soát chuyển giá. Mặc dù chuyển giá không phải hành vi vi phạm pháp luật, song các nước đều xác định việc không tuân thủ kê khai về giá chuyển giao khi có giao dịch với các bên có quan hệ liên kết theo thủ tục, trình tự quy định của pháp luật phải bị xử phạt. Ngoài việc truy thu số thuế bị phát hiện khai thiếu do không tuân thủ quy định pháp luật về kiểm soát chuyển giá, có nước chỉ xử phạt về thủ tục, có nước vừa xử phạt về thủ tục, vừa xử phạt về hành vi khai thiếu thuế.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Tài chính (2010), Thông tư 66/2010/TT-BTC;

2. Bộ Tài chính (2013), Thông tư 201/2013/TT-BTC;

3. ThS. Nguyễn Thị Thùy Minh; NCS. Lê Thị Thanh Huyền (2012), “Kinh nghiệm chống chuyển giá ở các nước và bài học cho Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, NXB Tài chính;

4. ThS. Phạm Thị Quyên (2012), “Kinh nghiệm kiểm soát chuyển giá một số quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, NXB Tài chính;

5. OECD (2010), “Transfer Pricing Guidelines for Multinational Enterprises and Tax Administration”.

THS. NGUYỄN ĐẠI THẮNG

NGUỒN: TẠP CHÍ TÀI CHÍNH, KỲ 1 THÁNG 9/2015

Trích dẫn từ: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu–trao-doi/trao-doi-binh-luan/kiem-soat-hoat-dong-chuyen-gia-cua-mot-so-nuoc-va-bai-hoc-cho-viet-nam-71314.html

CHUYỂN GIÁ TRONG DOANH NGHIỆP FDI: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

TS. NGUYỄN THỊ THU HOÀI – Đại Học Kinh tế (ĐHQG Hà Nội) & NCS. DƯƠNG VĂN AN

Bên cạnh những đóng góp tích cực của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, khu vực này cũng đã bộc lộ một số vấn đề như tình trạng chuyển giá, trốn thuế, gây thất thu ngân sách, tác động không tốt đến môi trường đầu tư của Việt Nam… Bài viết phản ánh hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và đề xuất một số giải pháp hạn chế thực trạng này.

Thực trạng hoạt động chuyển giá và chống chuyển giá

Thực tế cho thấy, vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam là khá rõ nét và đã được khẳng định. Hiện nay, cả nước có khoảng trên 15.000 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 218,8 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 106 tỷ USD.

Các dự án FDI góp phần tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống cho người lao động.

Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực cho nền kinh tế, khu vực FDI cũng đã và đang bộc lộ những vấn đề gây ảnh hưởng tiêu cực nổi bật là chuyển giá, trốn thuế, tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân sách, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp (DN) trong nước, tác động không tốt đến môi trường đầu tư…

Thống kê những năm qua cho thấy, cả nước có khoảng 50% DN FDI kê khai lỗ, trong đó nhiều DN thua lỗ liên tục trong nhiều năm liên tiếp. TP. Hồ Chí Minh có tới gần 60% trong số trên 3.500 DN FDI thường xuyên kê khai lỗ trong nhiều năm; Tương tự tại tỉnh Lâm Đồng với 104/111 DN FDI báo cáo lỗ liên tục; tỉnh Bình Dương, một trong những tỉnh thu hút được nhiều dự án FDI, cũng có đến 50% DN FDI báo cáo lỗ từ năm 2006 – 2011.

Các báo cáo của cơ quan thuế cho thấy, các DN FDI khai kinh doanh thua lỗ thường tập trung trong lĩnh vực gia công may mặc, da giày; sản xuất, kinh doanh chè xuất khẩu; công nghiệp chế biến…

Đặc biệt, ở TP. Hồ Chí Minh, có đến 90% DN FDI hoạt động trong lĩnh vực may mặc có kết quả kinh doanh thua lỗ trong khi hầu hết các DN trong nước cùng ngành nghề đều có lãi. Mặc dù thua lỗ triền miên song các DN FDI này vẫn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh.

Trường hợp điển hình có những biểu hiện “đáng ngờ” về chuyển giá, phải nói đến Công ty Coca-Cola Việt Nam. Trong hơn 20 năm đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, Coca-Cola liên tục báo lỗ, lỗ lũy kế tính đến 30/9/2011 của công ty này đã lên tới 3.768 tỷ đồng, vượt cả số vốn đầu tư ban đầu là 2.950 tỷ đồng.

Do lỗ liên tục như vậy nên Coca-Cola Việt Nam không phải đóng thuế thu nhập DN, trong khi doanh thu liên tục tăng từ 20-30%/năm. Tuy lỗ lớn như vậy nhưng DN này đã có kế hoạch đầu tư thêm 300 triệu USD tại Việt Nam.

Một công ty khác nằm trong diện nghi vấn chuyển giá với giá trị lớn lên đến hơn 1.200 tỷ đồng là Công ty PepsiCo Việt Nam. Từ khi thành lập năm 1991, gần 20 năm qua PepsiCo lỗ liên tục, cho đến một số năm gần đây mới có lãi nhưng tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu rất thấp, chỉ trên 2%. Mặc dù vậy, PepsiCo Việt Nam vẫn liên tục mở rộng đầu tư, xây dựng các nhà máy mới ở Đồng Nai (45 triệu USD), Bắc Ninh (73 triệu USD).

Trước vấn nạn chuyển giá ngày càng gia tăng, năm 2012, Tổng cục Thuế xây dựng chương trình thanh tra kiểm soát giá chuyển nhượng trong giai đoạn 2012-2015, đồng thời, quyết định thành lập Tổ quản lý giá chuyển nhượng. Chỉ tính trong 3 năm kể từ khi Tổng cục Thuế thành lập Tổ quản lý giá chuyển nhượng đã phát hiện nhiều vụ việc chuyển giá, với giá trị điều chỉnh rất lớn. Tại các Cục thuế địa phương đều đã quyết liệt thực hiện thanh tra, kiểm tra nhằm ngăn ngừa tình trạng chuyển giá của các DN.

Tại Cục thuế TP.Hồ Chí Minh, ngay trong năm 2012, cơ quan này đã thanh tra DN kê khai lỗ và DN giao dịch liên kết có dấu hiệu chuyển giá. Kết quả, đã giảm lỗ hơn 2.688,5 tỷ đồng; giảm khấu trừ 86,8 tỷ đồng; truy thu, truy hoàn và phạt 2.611 tỷ đồng.

Riêng thanh tra 16 DN dệt may có dấu hiệu chuyển giá, Cục thuế Thành phố đã giảm lỗ 367,8 tỷ đồng và truy thu 11,3 tỷ đồng. Chiêu thức chuyển giá của DN dệt may là khai tăng chi phí nguyên liệu đầu vào, giá gia công sản phẩm thấp dẫn tới thua lỗ triền miên. Cũng trong năm 2012, tại Đồng Nai, cơ quan thuế thanh tra giá chuyển nhượng tại một DN FDI sản xuất sợi (vốn đầu tư 7 triệu USD) khai lỗ hơn 2.100 tỷ đồng. Kết quả, đã buộc DN giảm hết số lỗ khai báo và xác định thu nhập chịu thuế hơn 1.100 tỷ đồng.

Kết quả thanh tra đã giúp ngân sách không bị thất thu hơn 340 tỷ đồng và có cơ sở để đấu tranh với các DN chuyển giá khác. Trong đó, tập trung thanh tra DN FDI ở 5 lĩnh vực là bất động sản, xây dựng (Hà Nội), dệt may (TP. Hồ Chí Minh), sản xuất sợi vải (Đồng Nai), sản xuất lắp ráp ô tô (Vĩnh Phúc), sản xuất cơ khí (Bình Dương). Hàng loạt DN liên tục báo lỗ nhưng vẫn đầu tư mở rộng sẽ bị đưa vào tầm ngắm thanh tra.

Tháng 9/2012, Cục Thuế TP. Hà Nội đã tiến hành thanh tra chuyển giá tại Công ty TNHH một thành viên Keangnam Vina. Đây là DN 100% vốn của Hàn Quốc (thành lập năm 2007) nhưng liên tục báo lỗ với tổng số lỗ lũy kế đến hết năm 2011 là 277 tỷ đồng.

Có nhiều nghi vấn chuyển giá trong các giao dịch liên kết đang được cơ quan thuế làm rõ, như Keangnam Vina trả lãi suất tiền vay tới 12%/năm (lãi suất của ngân hàng Việt Nam từ 5-7%/năm) cho khoản vay 400 triệu USD từ ngân hàng Kookmin bank (Hàn Quốc)- thành viên trong cùng tập đoàn; trả phí dàn xếp vốn tới 30 triệu USD cho nhà thầu chính- Cty Keangnam Enterprises.Ltd. Và nhiều khoản chi phí khác lên tới vài triệu USD…

Sau nhiều cuộc làm việc, Keangnam Vina đã chịu điều chỉnh giảm lãi suất vay vốn xuống mức thấp hơn, giảm lỗ. Hiện, cơ quan thuế đang phân tích hồ sơ, làm rõ các chi phí không hợp lý trong các giao dịch giữa Keangnam Vina và đối tác…

Trong năm 2013, ngành Thuế tiếp tục đẩy mạnh, tập trung nhân lực vào công tác trọng tâm chống chuyển giá đối với các DN FDI có giao dịch liên kết, liên tục khai lỗ nhưng vẫn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Theo đó, kết quả thanh tra, kiểm tra tại 2.110 DN đã truy thu, truy hoàn, phạt hơn 988 tỷ đồng, giảm khấu trừ 136,95 tỷ đồng. Đặc biệt thanh tra thuế đã buộc DN phải giảm lỗ lên tới hơn 4.192 tỷ đồng. Theo đánh giá của thanh tra, số tiền truy thu chủ yếu tập trung ở khu vực DN FDI (chiếm 40% tổng số thu), tỷ lệ số thu bình quân trên 1 DN là 1,73 tỷ đồng.

Tuy nhiên, con số trên chỉ phản ánh một góc của bức tranh về thực trạng trốn thuế của DN FDI. Báo cáo của 63 cục thuế, hơn 100 chi cục thuế trên cả nước thực sự khiến không ít người phải giật mình. Cụ thể, kết quả thanh tra tại 870 DN FDI có tới 720 DN vi phạm. Đáng lưu ý là tại một số đơn vị, tỷ lệ vi phạm lên đến 100% như Cục thuế Bắc Giang thanh tra 16 DN thì cả 16 đều vi phạm. Tỷ lệ này diễn ra tương tự tại Hòa Bình (16/16), Gia Lai (15/15)…

Tại một số tỉnh, thành khác dù không đến 100% nhưng tỷ lệ này cũng rất lớn như Hà Nội thanh tra 332 DN thì phát hiện có 326 đơn vị vi phạm, số tiền giảm lỗ hơn 1.500 tỉ đồng, truy thu, phạt, truy hoàn gần 498 tỷ đồng. TP.Hồ Chí Minh thanh tra 193 DN FDI, có tới 164 DN vi phạm, giảm lỗ hơn 870 tỷ đồng và truy thu, phạt gần 173 tỷ đồng. Còn tại 1.240 DN bị kiểm tra, có tới 942 DN vi phạm. Cục thuế Bắc Giang kiểm tra 106 DN có 106 DN vi phạm, tỷ lệ này cũng xảy ra tại Đồng Nai 39/39, Gia Lai 30/30, Hải Phòng 45/45, Thái Nguyên 46/46, Quảng Ngãi 80/80…

Năm 2014, ngành Thuế đã tiến hành thanh tra, kiểm tra chống chuyển giá tại 2.866 DN khai báo kinh doanh thua lỗ, DN nghi ngờ có dấu hiệu chuyển giá và DN có hoạt động giao dịch liên kết, tăng 80% so với năm 2013. Kết quả là, cơ quan thuế đã, giảm lỗ hơn 5.830 tỷ đồng, truy thu, truy hoàn và phạt gần 1.701 tỷ đồng, so với năm 2013 tăng tương ứng gần 82% và 112%.

Trong đó, qua thanh tra, kiểm tra đối với 30 DN FDI có giao dịch liên kết, rủi ro cao về chuyển giá, cơ quan thuế đã giảm lỗ trên 1.600 tỷ đồng, sau khi miễn giảm thuế do ưu đãi đầu tư, đã truy thu thuế thu nhập DN và xử phạt vi phạm trên 600 tỷ đồng.

Tính riêng trong 9 tháng đầu năm 2015, ngành Thuế đã kiểm tra và phát hiện 1.600 DN có dấu hiệu chuyển giá. Ngay cả trường hợp Công ty Metro Cash & Carry Việt Nam, sau khi công bố kết quả thanh tra bước đầu, đã điều chỉnh giảm lỗ, giảm khấu trừ và truy thu thuế với tổng số tiền 507 tỷ đồng. Hiện nay, cơ quan thuế đang tiến hành rà soát, kiểm tra để làm rõ nghi vấn dấu hiệu chuyển giá ở Công ty này.

Những thủ đoạn chuyển giá tinh vi

Hành vi, thủ đoạn chuyển giá của các DN FDI đã được lực lượng thanh tra thuế làm rõ. Cụ thể, quá trình thu thập các thông tin, dữ liệu, thanh tra phát hiện các nhà đầu tư nước ngoài thường góp vốn vào DN trong nước bằng máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết nhưng được đẩy giá lên rất cao so với giá trị thực. Bằng cách này đã giúp nâng khống giá trị vốn góp, gây thất thu cho ngân sách và bất lợi cho DN trong nước.

Một hình thức chuyển giá khác được các DN FDI áp dụng là bán hàng hóa, nguyên vật liệu cho các bên có quan hệ liên kết với giá thấp hơn nhiều so với giá bán cho các bên không có quan hệ liên kết. Đây là hành vi phổ biến nhất. Bởi với lợi thế nắm giữ phần vốn lớn tại các DN Việt Nam, bên liên kết nước ngoài có quyền định đoạt giá chuyển giao hàng hóa, nguyên liệu để chuyển được nhiều lợi nhuận trước thuế ra nước ngoài.

Các tập đoàn, công ty mẹ tại nước ngoài ký hợp đồng sản xuất kinh doanh và dịch vụ với các công ty của các nước với đơn giá gia công sản xuất dịch vụ rất cao. Sau đó, các tập đoàn này giao lại cho các công ty con lập tại Việt Nam thực hiện sản xuất gia công dịch vụ và xuất thẳng cho các đơn vị mà công ty mẹ đã ký hợp đồng. Tuy nhiên, tiền không thu được trực tiếp từ các công ty đã xuất hàng mà chỉ thu được theo đơn giá gia công, sản xuất dịch vụ do công ty mẹ quy định, đơn giá này rất thấp.

Bên cạnh đó, một hình thức chuyển giá khác thông qua chi trả lãi vay vốn sản xuất kinh doanh cũng được các nhà “ảo thuật” FDI vận dụng. Hành vi này thông qua giá bán hàng hóa dịch vụ xuất khẩu cho nước ngoài, chủ yếu bao tiêu sản phẩm qua công ty mẹ với giá bán hoặc giá gia công thấp hơn giá vốn dẫn đến kết quả sản xuất kinh doanh của DN FDI liên tục lỗ nhiều năm. Để tiếp tục hoạt động và mở rộng kinh doanh, công ty mẹ thực hiện hình thức hỗ trợ vốn hoặc cho vay không tính lãi.

Ngoài ra, các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ, tiêu dùng có các nhãn hàng nổi tiếng ở nước ngoài thường xuyên có hành vi chuyển giá thông qua định giá tiền bản quyền thương hiệu rất cao so với giá trị thực. Thủ đoạn này giúp nhà đầu tư nước ngoài thu được lợi nhuận từ nâng khống giá trị thương hiệu trong khi bên phía Việt Nam vẫn phải chịu chi phí quảng cáo cho thương hiệu đó.

Điều đáng nói, quảng cáo tại thị trường trong nước với chi phí cao làm cho thương hiệu này nổi tiếng hơn và bên nước ngoài có lý do yêu cầu bên Việt Nam phải trả thêm tiền bản quyền thương hiệu, mặc dù thực chất các khoản chi phí này phải do công ty mẹ tại nước ngoài trang trải.

Giải pháp chống chuyển giá

Chuyển giá không chỉ làm thất thu ngân sách nhà nước, mà còn tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN. Để hạn chế tình trạng này cần tập trung thực hiện hiệu quả vào một số giải pháp sau:

Thứ nhất, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý. Trước mắt, Việt Nam cần hoàn thiện hành trang pháp lý về chống chuyển giá và tiến tới ban hành Luật Chống chuyển giá; thu hẹp các ưu đãi về thuế, cụ thể là hạn chế tối đa các chính sách xã hội trong ưu đãi thuế; chuyển giao quyền điều tra cho cơ quan thuế từ cấp Tổng cục và lâu dài đến cơ quan thuế cấp tỉnh, thành phố; hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người, DN nộp thuế để từ đó theo dõi sát sao những thay đổi về doanh thu, lợi nhuận của các DN.

Thứ hai, kiện toàn bộ máy. Mới đây, Tổng cục Thuế chính thức thành lập Phòng Thanh tra giá chuyển nhượng. Đồng thời, lực lượng thanh tra giá chuyển nhượng được thành lập tại 4 Cục thuế địa phương có nhiều rủi ro liên quan đến giá chuyển nhượng như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai. Đây là lực lượng chuyên trách làm việc chống chuyển giá tại cơ quan Thuế Trung ương đến địa phương, cũng như tiến hành thu thập xử lý thông tin từ các DN có quan hệ liên kết từ cơ quan thuế và bên thứ ba.

Vấn đề đặt ra hiện nay là các cơ quan thuế cần khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đáp ứng được yêu cầu khai thác, phân tích rủi ro và làm căn cứ để xác định giá thị trường đối với giao dịch liên kết. Bởi theo các Cục thuế địa phương, việc nhận dạng chuyển giá không khó, nhưng quá trình xử lý gặp rất nhiều khó khăn vì chưa có dữ liệu, nên cán bộ thuế vẫn phải làm thủ công, nhặt từng khoản mục để so sánh, đối chiếu.

Thứ ba, áp dụng phương pháp định giá (APA – cơ chế thoả thuận trước về xác định giá). Biện pháp này đang được áp dụng rộng rãi tại châu Âu và nhiều nước trong khu vực như: Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Malaysia… Tại Việt Nam, theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý Thuế, từ 1/7/2013 cơ quan thuế được phép áp APA.

Theo cơ chế này, DN đa quốc gia phải chủ động đề xuất biện pháp tính giá hoặc mức giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ giữa các thành viên trong tập đoàn, trước khi kê khai và nộp thuế. Cơ quan thuế sẽ phối hợp với cơ quan thuế nước ngoài đã ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam tổ chức giám sát, kiểm soát để chống gian lận thuế.

Về lý thuyết, APA có thể giúp giảm bớt tình trạng khai gian giá và điệp khúc “lỗ giả lãi thật” mà dư luận đã nhắc tới ở nhiều DN. Tuy nhiên, chưa chắc DN có vốn nước ngoài đã tự nguyện làm APA. Bởi APA áp dụng trên nguyên tắc tự nguyện, cơ quan thuế không thể ép DN phải thực hiện. Cơ quan thuế cần có cơ chế khuyến khích các DN có giao dịch liên kết áp dụng APA để tránh thanh tra về chuyển giá. Hiện nay, Việt Nam cũng đã ban hành hướng dẫn về APA và đã có một số DN xin áp dụng.

Tuy nhiên, APA cũng là một quá trình phức tạp và mất nhiều thời gian nên chỉ phù hợp với các DN có quy mô lớn và có mô hình kinh doanh ổn định. Mặt khác, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý trong quản lý chuyển giá.

Thứ tư, Chính phủ và các cơ quan chức năng cũng cần rà soát, điều chỉnh theo hướng thu hẹp khoảng cách về các ưu đãi thuế giữa các ngành, lĩnh vực và vùng miền, địa phương. Như đã nêu ở trên, một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi chuyển giá là có sự chênh lệch thuế thu nhập DN giữa các quốc gia, chênh lệch thuế suất thuế thu nhập DN trong một quốc gia do áp dụng thuế suất ưu đãi và các ưu đãi khác như miễn, giảm thuế.

Việt Nam đã bước qua giai đoạn thu hút FDI bằng mọi giá, do vậy nên cân nhắc, chỉ cho phép ưu đãi thuế đối với một số ngành nghề, lĩnh vực, vùng miền và trong những trường hợp có lợi nhất so với các hình thức ưu đãi khác.

Thứ năm, cơ quan thuế các cấp cần tăng cường thanh tra giá chuyển giao, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Thuế. Chú trọng việc thanh tra, kiểm tra giá chuyển giao đối với các DN có nhiều thành viên; các ngành nghề có dấu hiệu rủi ro lớn về thuế do hành vi chuyển giá của DN liên kết, các DN đã và đang thực hiện tái cơ cấu có khả năng lợi dụng chuyển giá để tránh thuế. Đối với các trường hợp chuyển giá, phải có chế tài xử phạt theo hướng tăng mức phạt và hình thức phạt so với quy định hiện tại để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Thứ sáu, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và liên thông dữ liệu, thông tin về DN FDI trong các cơ quan chức năng của Việt Nam để có sự phối hợp đồng bộ, thông suốt trong kiểm soát chuyển giá của các cơ quan chức năng. Thời gian tới, ngành Thuế, cơ quan cấp phép đầu tư, hải quan, công an, ngân hàng… cần tăng cường xây dựng cơ sở dữ liệu và kết nối thông tin để có được một hệ thống thông tin đảm bảo cho quá trình quản lý thuế nói chung và hoạt động phân tích rủi ro, thanh tra, xử lý vi phạm về giá chuyển giao giữa các thành viên liên kết nói riêng.

Thứ bảy, tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuế để chuyên theo dõi, kiểm soát chuyển giá, trong đó chú trọng đào tạo về kỹ năng xác định giá thị trường, trang bị kiến thức về kinh tế ngành, kỹ năng tin học, ngoại ngữ…

Hoạt động chống chuyển giá có thể tác động đến khả năng thu hút đầu tư nước vào Việt Nam trong ngắn hạn theo hướng giảm số lượng dự án và vốn đầu tư, song về dài hạn sẽ nâng cao chất lượng thu hút FDI bằng việc hạn chế các nhà đầu tư không hiệu quả và tăng đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài, thu hút được các nhà đầu tư có uy tín, môi trường đầu tư Việt Nam sẽ phát triển theo hướng tích cực, lành mạnh hơn. Đã đến lúc các ngành chức năng, các địa phương cần kiên quyết và quyết liệt hơn nữa trong thực hiện các biện pháp đồng bộ chống chuyển giá, để tránh những thua thiệt khi thu hút FDI.

NGUỒN: TẠP CHÍ TÀI CHÍNH, KỲ 2 SỐ THÁNG 12/2015

Trích dẫn từ: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu–trao-doi/trao-doi-binh-luan/chuyen-gia-trong-cac-doanh-nghiep-fdi-thuc-trang-va-giai-phap-75308.html

Bài viết liên quan