Feel free to go with the truth

Trang chủ / BÀI VIẾT & ẤN PHẨM CỦA FDVN / GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THEO FIDIC 2017 VÀ PHÁP LUẬT XÂY DỰNG VIỆT NAM

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THEO FIDIC 2017 VÀ PHÁP LUẬT XÂY DỰNG VIỆT NAM

Hiệp hội Quốc tế các kỹ sư tư vấn (FIDIC) là một tổ chức xã hội nghề nghiệp của tất cả các kỹ sư tư vấn, được thành lập năm 1913 với sự tham gia của hơn 100 quốc gia trên thế giới[1]. FIDIC đã thiết lập bộ mẫu hợp đồng xây dựng có tính ứng dụng cao, đáp ứng được tính đa dạng của các loại giao dịch liên quan đến dự án xây dựng. Năm 2017, FIDIC đã đưa ra bộ mẫu Hợp đồng mới nhất, với những điều khoản về giải quyết tranh chấp chặt chẽ hơn, có tính ứng dụng cao hơn. Tuy nhiên, các vấn đề về giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng theo FIDIC 2017 vẫn chưa thực sự có điều kiện áp dụng tại Việt Nam, và sẽ có nhiều thách thức hơn trong việc “Việt hóa” các phương thức giải quyết tranh chấp theo bản FIDIC này.

Từ khóa: FIDIC 2017, phương thức giải quyết tranh chấp, giải quyết tranh chấp, luật xây dựng Việt Nam

Đặt vấn đề

Với 8 loại hợp đồng mẫu được biên soạn theo hướng phân chia rủi ro và cân bằng lợi ích hợp lý nhất giữa các bên tham gia hợp đồng, bộ mẫu Hợp đồng FIDIC 2017 được ban hành tháng 12 năm 2017[2] đang dần được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới, trở thành chuẩn mực chung cho các quốc gia khi soạn thảo các văn bản pháp lý liên quan đến xây dựng. Mỗi một mẫu hợp đồng trong bộ Hợp đồng FIDIC 2017 đều được chia thành hai phần cơ bản: Genral Conditions – Điều kiện chung, và Special Conditions – Điều kiện cụ thể. Vấn đề được đặt ra chính là làm thế nào để hài hòa hóa những điều khoản của FIDIC 2017 khi thiết lập các văn bản pháp lý liên quan đến hợp đồng xây dựng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, để vừa phù hợp với xu hướng chung của thế giới, vừa đáp ứng được các điều kiện thực tiễn về văn hóa, xã hội, kinh tế và trình độ nhân lực trong nước. Trong số 21 điều khoản mẫu trong Hợp đồng FIDIC 2017, vấn đề về giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng như quyền khiếu nại của các bên vẫn đang còn nảy sinh nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng vào thực tiễn và hài hòa hóa với pháp luật Việt Nam.

I. CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THEO FIDIC 2017

1. Thông qua Ban phân xử và giảm thiểu tranh chấp –  DAAB

Ban phân xử và giảm thiểu tranh chấp (“DAAB”) là khái niệm mới, được thay đổi từ Ban phân xử tranh chấp (“DBA”) trong FIDIC 1999. Tuy nhiên, theo FIDIC 2017, không có định nghĩa cụ thể nào về DAAB. Định nghĩa về Ban xử lý tranh chấp (“DB”) được ICC tổng hợp và định nghĩa khái quát, nhằm mục đích đưa ra hướng tiếp cận rõ ràng hơn về cơ quan này. Theo ICC, DB là một cơ quan thường trực bao gồm một hoặc ba thành viên. Ban tranh chấp thường được thành lập sau khi các bên ký kết hoặc bắt đầu thực hiện hợp đồng trung hoặc dài hạn, giúp các bên có thể ngăn ngừa hoặc giải quyết những mâu thuẫn hoặc tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Mặc dù thường được áp dụng trong các dự án xây dựng, Ban tranh chấp cũng đem lại hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực khác. Những lĩnh vực đó bao gồm nghiên cứu và phát triển, sở hữu trí tuệ, hợp đồng phân chia sản phẩm và hợp đồng của các cổ đông[3]. Trong Hợp đồng mẫu FIDIC 2017, việc xử lý, giải quyết tranh chấp bằng Ban xử lý tranh chấp được quy định tại Điều 21 – Tranh chấp và trọng tài[4].

Theo Sách đỏ FIDIC 2017, khái niệm Ban phân xử tranh chấp trong FIDIC 1999 đã đổi thành Ban phân xử và hạn chế tranh chấp. Điều này đã nói lên phần nào tinh thần “phòng bệnh hơn chữa bệnh” của FIDIC 2017 so với các ấn phẩm trước đó. Theo đó, thành viên của Ban phân xử và hạn chế tranh chấp sẽ cố định và được chỉ định bởi các bên từ khi bắt đầu ký kết hợp đồng và phụ trách trong suốt thời hạn của dự án. FIDIC 2017 cũng quy định chi tiết về việc thành viên DAAB từ chức, chấm dứt và bổ nhiệm mới. Việc thực hiện các cuộc họp với các bên được thực hiện theo lịch trình đã ấn định, thay vì trên cơ sở vụ việc như các ấn phẩm trước[5].

Cơ chế giải quyết tranh chấp tại DAAB được quy định như sau[6]:

  • DAAB được thành lập và bổ nhiệm thành viên trong vòng 28 ngày sau khi Nhà thầu nhận được Thư giao thầu, hoạt động theo hình thức thường trực. Thành viên DAAB phải là chuyên gia, hoặc thành viên của Hiệp hội FIDIC, hoặc Trọng tài viên, có kiến ​​thức pháp lý, với ít nhất 10 năm kinh nghiệm, có đủ trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp để đảm bảo đưa ra quyết định minh bạch, trung lập, khách quan và công bằng[7].
  • DAAB có chức năng giải quyết tất cả các tranh chấp và mâu thuẫn liên quan đến hợp đồng, quá trình thực hiện hợp đồng, kết quả thực hiện hợp đồng[8] theo sự khiếu nại của Nhà thầu và Chủ đầu tư. Theo Sách vàng Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC, tất cả các quyết định của DAAB đều được xem là có giá trị bắt buộc tạm thời như một điều kiện tiền lệ để phân xử tranh chấp của các bên[9].
  • Theo quy định tại Điều 21.3 của Sách đỏ Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC, khi được yêu cầu bởi các bên, DAAB có thể đưa ra các thảo luận không chính thức nào đối với các mâu thuẫn và tranh chấp phát sinh giữa hai bên. Trong trường hợp này, các bên tham gia hợp đồng và DAAB không phải chịu sự ràng buộc bởi bất kỳ quan điểm nào[10]. Như vậy, DAAB vẫn đóng vai trò như nhà cố vấn liên quan đến các tranh chấp giữa các bên, bên cạnh vai trò phân xử tranh chấp.
  • Về thời hạn thực hiện quy trình phân xử tranh chấp bằng DAAB, một bên phải đưa yêu cầu tranh chấp ra DAAB để DAAB ra quyết định trong vòng 42 ngày sau khi gửi hoặc nhận Thông báo Không thỏa mãn (“NOD”) với Quyết định của Nhà tư vấn. Sau đó, DAAB phải đưa ra quyết định của mình trong vòng 84 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu. Trường hợp một bên không thỏa mãn với quyết định của DAAB phải đưa ra một NOD đối với quyết định của DAAB cho bên kia trong vòng 28 ngày. Nếu các bên không đưa ra NOD về quyết định của DAAB, quyết định sẽ trở thành cuối cùng và ràng buộc cả hai Bên[11].

Ngoài ra, theo Sách đỏ FIDIC 2017, DAAB còn được quy định riêng tại Phụ lục của Bộ mẫu Hợp đồng như các định nghĩa, quy định về tính độc lập và tính không thiên vị, các nghĩa vụ chung[12]… Điều này phần nào chứng tỏ sự chú trọng và ưu tiên của FIDIC 2017 đối với phương pháp giải quyết tranh chấp thông qua DAAB.

2. Hòa giải tranh chấp

Điều khoản về hòa giải tranh chấp được quy định tại Điều 21.5 của Sách đỏ Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 2017. Theo đó, khi một trong các bên hoặc các bên gửi NOD đối với quyết định của DAAB thì hai bên phải nỗ lực giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa giải trước khi bắt đầu đưa vụ việc ra phân xử trọng tài. Tuy nhiên, trừ khi hai bên có thỏa thuận khác, thỏa thuận trọng tài vẫn có thể được thực hiện vào hoặc sau ngày ngày thứ 28 sau khi đưa ra NOD, không xét đến việc các bên có hỏa giải tranh chấp hay chưa.

Như vậy, có thể thấy rằng, tinh thần của FIDIC 2017 vẫn khuyến khích các bên thực hiện thủ tục hòa giải tranh chấp và ưu tiên hòa giải trước khi đưa vụ việc tranh chấp ra trọng tài. Thời hạn tối đa cho việc hỏa giài tranh chấp theo FIDIC 2017 là 28 ngày. Bên cạnh đó, hòa giải viên có nghĩa vụ giám sát sự thỏa thuận và đàm phán giữa các bên, giúp các bên giải quyết vướng mắc, mâu thuẫn và đi đến sự đồng thuận. Ngoài ra, Hoà giải viên cũng có thể góp ý vào quá trình hỏa giải, chuẩn bị các văn bản cần thiết ghi nhận quá trình và kết quả hòa giải.

3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Phương thức giải quyết tranh chấp bằng được quy định cụ thể tại Điều khoản 21.6 của Sách đỏ Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 2017. Theo đó, điều khoản này quy định, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp khi tranh chấp không thể giải quyết bằng con đường hòa giải. Trọng tài sẽ giải quyết các khiếu nại của các bên đối với quyết định của Nhà tư vấn, các quyết định của DAAB. Bên cạnh đó, bất kỳ khiếu nại, tranh chấp liên quan đến quyết định của DAAB chưa trở thành quyết định cuối cùng và có giá trị ràng buộc cuối cùng sẽ được giải quyết bằng trọng tài quốc tế. Như vậy, có thể thấy phạm vi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khá rộng, nhưng điều kiện để đưa tranh chấp ra phân xử trọng tài thì lại hạn chế hơn so với phiên bản FIDIC 1999. Cụ thể, cơ sở để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chính là những tranh chấp không thể hỏa giải hoặc quá thời hạn hòa giải, hoặc những tranh chấp đã thông qua quy trình khiếu nại và giải quyết bởi DAAB nhưng chưa trở thành quyết định có giá trị ràng buộc cuối cùng.

Bên cạnh đó, cũng theo Điều 21.6 của Sách đỏ Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 2017, tranh chấp sẽ được giải quyết theo Quy tắc Trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (“ICC”). Như vậy, khi giải quyết tranh chấp bằng thỏa thuận trọng tài, các bên sẽ phải tuân theo các quy tắc của ICC, và phán quyết của trọng tài theo quy tắc của ICC sẽ là phán quyết cuối cùng có giá trị ràng buộc đối với các bên. Bên cạnh đó, bất kỳ tranh chấp hay sự phản đối nào đối với thành viên của DAAB cũng sẽ được quyết định bởi ICC. Để thực hiện thỏa thuận giữa ICC và FIDIC, Ban điều hành ICC đã thông qua ba Phụ lục mới đối với Quy tắc của Ban Tranh chấp ICC, thay thế Phụ lục hiện có[13].

II. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT XÂY DỰNG VIỆT NAM

1. Quy định pháp luật xây dựng Việt Nam về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng xây dựng

Các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng thi công, xây dựng, lắp đặt… được quy định cụ thể trong Luật Xây dựng 2014 và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn. Trên thực tế, các bên tham gia hợp đồng xây dựng tại Việt Nam vẫn áp dụng Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC để soạn thảo hợp đồng một cách chặt chẽ và bảo vệ tốt nhất quyền lợi của các bên, tuy nhiên, mọi vấn đề liên quan đến giao dịch và hợp đồng xây dựng vẫn được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam. Thông qua việc rà soát nội dung các văn bản pháp luật hướng dẫn hợp đồng xây dựng nói chung, có thể thấy các quy định mẫu của FIDIC 1999 được áp dụng khá linh hoạt[14], điều này phần nào chứng tỏ sức ảnh hưởng của Bộ mẫu hợp đồng FIDIC đối với pháp luật xây dựng của nước ta. Tuy nhiên, vẫn còn những điểm khác biệt dẫn đến hạn chế trong việc giải quyết tranh chấp khiếu nại và tranh chấp liên quan đến hợp đồng xây dựng trong các văn bản luật và dưới luật của Việt Nam.

Theo quy định tại Khoản 8, Điều 146 Luật Xây dựng 2014, tranh chấp hợp đồng xây dựng được quy định như sau:

“a) Tôn trọng các thỏa thuận hợp đồng và các cam kết trong quá trình thực hiện hợp đồng, bảo đảm bình đẳng và hợp tác;

b) Các bên hợp đồng có trách nhiệm tự thương lượng giải quyết tranh chấp. Trường hợp các bên hợp đồng không tự thương lượng được thì tranh chấp được giải quyết thông qua hòa giải, trọng tài thương mại hoặc tòa án theo quy định của pháp luật.”

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 45 của Nghị định 37/2015/NĐ-CP quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng, việc giải quyết tranh chấp sẽ tuân thủ Khoản 8, Điều 146 của Luật Xây dựng 2014 như đã trích dẫn bên trên. Bên cạnh đó, nếu các bên tham gia hợp đồng có quy định về cơ chế giải quyết trah chấp bằng Ban xử lý tranh chấp (cơ quan, tổ chức hoặc một, một số cá nhân chuyên gia) thì việc xử lý tranh chấp hợp đồng thông qua ban xử lý tranh chấp được quy định tương tự như điều khoản về giải quyết tranh chấp tại DAAB trong Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 1999. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa điều khoản giải quyết tranh chấp của Nghị định 37/2015/NĐ-CP và FIDIC 1999 là trong thời hạn hai mươi tám (28) ngày kể từ ngày các bên nhận được kết luận hòa giải của ban xử lý tranh chấp, nếu một bên không đồng ý kết luận hòa giải của ban xử lý tranh chấp thì có quyền phản đối và các tranh chấp này sẽ được giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể thấy, việc giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án vẫn được ghi nhận là cơ chế giải quyết tranh chấp chính, bên cạnh Trọng tài thương mại.

  1. Những điểm khác biệt cơ bản của pháp luật xây dựng Việt Nam và Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC 2017

Ban xử lý tranh chấp, Tòa án và Trọng tài theo quy định pháp luật Việt Nam có nhiều điểm khác biệt rõ rệt khi so sánh với Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC 2017:

Tiêu chí

Cơ chế giải quyết tranh chấp

Pháp luật Việt Nam

Fidic 2017

Thời điểm, cách thức thành lập, hình thức hoạt động, số lượng thành viên Ban xử lý tranh chấp Là cơ quan, tổ chức hoặc một, một số cá nhân chuyên gia, gọi chung là Ban xử lý tranh chấp[15].

Có thể được nêu trong hợp đồng tại thời điểm ký kết hoặc thiết lập sau khi có tranh chấp xảy ra.

Số lượng thành viên ban xử lý tranh chấp do các bên tự thỏa thuận.

Được thành lập và bổ nhiệm thành viên trong vòng 28 ngày sau khi Nhà thầu nhận được Thư giao thầu. Tên gọi: Ban phân xử và giảm thiểu tranh chấp – DAAB[16].

Hoạt động theo hình thức thường trực.

Số lượng thường nêu trong Hợp đồng, từ 1 đến 3 thành viên. Nếu hợp đồng không đề cập số lượng thành viên thì mặc định DAAB có 3 thành viên.

Tòa án Thành lập theo quy định pháp luật Việt Nam. Không đề cập
Trọng tài Thành lập theo quy định pháp luật Việt Nam hoặc nước ngoài. Không đề cập
Trường hợp áp dụng và cách thức hoạt động Ban xử lý tranh chấp Các bên hợp đồng có trách nhiệm tự thương lượng giải quyết tranh chấp. Trường hợp các bên hợp đồng không tự thương lượng được thì tranh chấp được giải quyết thông qua Ban xử lý tranh chấp[17].

Không quy định cụ thể cách thức hoạt động

Bước hòa giải bắt buộc phải áp dụng khi có tranh chấp, khiếu nại phát sinh.

Một bên phải đưa yêu cầu tranh chấp ra DAAB để DAAB ra quyết định trong vòng 42 ngày sau khi gửi hoặc nhận NOD với Quyết định của Nhà tư vấn[18].

DAAB phải đưa ra quyết định của mình trong vòng 84 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu. Trường hợp một bên không thỏa mãn với quyết định của DAAB phải đưa ra một NOD đối với quyết định của DAAB cho bên kia trong vòng 28 ngày[19].

Tòa án Trong thời hạn hai mươi tám (28) ngày kể từ ngày các bên nhận được kết luận hòa giải của ban xử lý tranh chấp, nếu một bên không đồng ý kết luận hòa giải của ban xử lý tranh chấp thì có quyền phản đối và các tranh chấp này sẽ được giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án theo quy định của pháp luật[20].

Quy trình tố tụng tuân thủ pháp luật về Tố tụng dân sự.

Không đề cập
Trọng tài Trong thời hạn hai mươi tám (28) ngày kể từ ngày các bên nhận được kết luận hòa giải của ban xử lý tranh chấp, nếu một bên không đồng ý kết luận hòa giải của ban xử lý tranh chấp. Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài[21].

Quy trình giải quyết tranh chấp tuân thủ pháp luật về Trọng tài thương mại.

Trường hợp các bên không đồng ý với Quyết định của DAAB, không hòa giải được, quá thời hạn hòa giải, khi có khiếu nại đối với Quyết định của Nhà tư vấn[22].

Giải quyết tranh chấp theo Quy tắc Trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế[23].

Hiệu lực của kết luận hòa giải, quyết định/phán quyết/bản án Ban xử lý tranh chấp Không có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Trong thời hạn hai mươi tám (28) ngày kể từ ngày các bên nhận được kết luận hòa giải của ban xử lý tranh chấp, nếu một trong hai bên không đồng ý kết luận hòa giải thì có thể đưa vụ việc ra xét xử theo cơ chế Tòa án, Trọng tài (nếu có thỏa thuận Trọng tài). Nếu các bên không đưa ra NOD về quyết định của DAAB, quyết định sẽ trở thành cuối cùng và ràng buộc cả hai Bên[24].
Tòa án Có hiệu lực theo quy định pháp luật về Tố tụng dân sự. Không đề cập
Trọng tài Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành[25]. Phán quyết của trọng tài theo quy tắc của ICC sẽ là phán quyết cuối cùng có giá trị ràng buộc đối với các bên[26].

3. Thực trạng giải quyết tranh chấp

Từ những quy định trên, có thể thấy luật pháp Việt Nam luôn ưu tiên phương thức hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng xây dựng. Bên cạnh đó, cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua Ban phân xử và giải quyết tranh chấp (hoặc một cơ chế tương tự) như quy định tại Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 1999 và FIDIC 2017 vẫn được đề cập như một phương pháp giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng giữa các bên. Tuy nhiên, trên thực tế, việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng xây dựng vẫn được giải quyết chủ yếu tại Tòa án và Trọng tài.

Theo số liệu thống kê của ICC, trong năm 2019 tại Việt Nam, có đến 40% vụ việc mà ICC giải quyết là tranh chấp hợp đồng xây dựng, thời hạn giải quyết trung bình là 26 tháng cho mỗi vụ việc, có những vụ việc phức tạp sẽ còn kéo dài lâu hơn[27]. Bên cạnh cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, cũng có nhiều vụ việc được giải quyết bằng cơ chế Tòa án và hòa giải. Tính từ năm 2019 đến nay, có 220 bản án, quyết định của Tòa án được công bố công khai liên quan đến tranh chấp về xây dựng, trong tổng số hơn 6908 bản án, quyết định đã công bố trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại[28]. Như vậy, có thể thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp về xây dựng thông qua Tòa án và Trọng Tài vẫn được các bên ưu tiên lựa chọn khi phát sinh mâu thuẫn liên quan đến hợp đồng xây dựng.

3.1. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án

Lựa chọn giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án sẽ phát sinh một số vướng mắc và khó khăn sau:

(i) Việc phân xử tranh chấp liên quan đến Hợp đồng xây dựng đều cần kiến thức chuyên môn cao và kỹ năng nghiệp vụ liên quan đến lĩnh vực này, trong khi đó, các Tòa án dù được phân cấp và chuyên trách, thì vẫn xử lý chung tất cả các vụ việc trong cùng một lĩnh vực, trong trường hợp này là lĩnh vực kinh doanh thương mại nói chung. Vì vậy, rất khó để có một cơ quan Tòa án thực sự am hiểu chuyên sâu các vấn đề kỹ thuật, chuyên môn và có kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động xây dựng, thi công.

(ii) Quy trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án thường mất khá nhiều thời gian với nhiều thủ tục phức tạp, có những vụ tranh chấp lên đến 2, 3 năm vẫn chưa có bản án sơ thẩm. Việc giải quyết tranh chấp kéo dài thời gian không những gây phiền hà cho các bên mà còn làm chậm quá trình đền bù tổn thất, bồi thường thiệt hại và chi trả các khoản phạt hợp đồng, từ đó phát sinh thêm các vướng mắc về lãi suất chậm trả, tỷ giá quy đổi ngoại tệ… Một ví dụ điển hình cho thấy thời hạn tố tụng kéo dài là Bản án kinh doanh thương mại số 64/2017/KDTM-PT ngày 04/08/2017 về tranh chấp hợp đồng xây dựng giữa nguyên đơn là Công ty Cổ phần E. và bị đơn là Công ty CP Đầu tư & Xây lắp T. của Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội, khi mâu thuẫn giữa các bên phát sinh từ năm 2011, nhưng đến năm 2017 thì bản án sơ thẩm mới được ban hành[29].

(iii) So với việc giải quyết tranh chấp bằng Ban phân xử hoặc Ban phân xử và hạn chế tranh chấp, việc giải quyết tranh chấp bằng cơ chế Tòa án cũng làm phát sinh thêm nhiều chi phí cho các bên, trong đó có án phí, phí xem xét, thẩm định, phí thi hành án… Ví dụ, theo Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2020/KDTM-PT ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng thi công công trình xây dựng giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần tập đoàn H V và bị đơn là Tổng Công ty ĐLMN, tổng giá trị yêu cầu giải quyết là 13.919.011.962 đồng, nhưng án phí mà bên thua kiện phải chịu đã lên đến 98.752.876 đồng[30].

(iv) Trường hợp hợp đồng xây dựng có yếu tố nước ngoài, việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án đòi hỏi các bên phải thực hiện các thủ tục về hợp pháp hóa lãnh sự các loại giấy tờ từ nước ngoài, đơn khởi kiện, phản tố, thư/hợp đồng ủy quyền… Bên cạnh đó, sự khác biệt về ngôn ngữ, quy định về pháp luật tố tụng giữa các bên cũng là một rào cản lớn khi áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án.

3.2. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài:

Bên cạnh cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, Trọng tài cũng là hình thức được các bên ưu tiên lựa chọn khi có tranh chấp xảy ra. Thực tế cho thấy hiện nay thỏa thuận trọng tài đã xuất hiện ngày càng nhiều trong các hợp đồng thương mại, hợp đồng xây dựng, đặc biệt là các hợp đồng có yếu tố nước ngoài.

Tính chất linh động, không bị áp lực từ những yếu tố là một trong những điểm thu hút các bên lựa chọn thỏa thuận trọng tài. Cùng với đó, các trọng tài việ được lựa chọn là những chuyên gia, am hiểu rõ về lĩnh vực tranh chấp, không bị rào cản về ngôn ngữ… cũng là những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức này.

Tuy nhiên hiện nay, việc giải quyết tranh chấp bởi Trọng tài còn bị hạn chế ở một số quyền xuất phát từ bản chất trọng tài không phải là một cơ quan mang quyền lực Nhà nước. Các hoạt động thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng… còn cần phải có sự hỗ trợ của Tòa án. Việc tổ chức thi hành Phán quyết trọng tài trên thực tế cũng còn nhiều khó khăn ảnh hưởng đến việc đảm bảo quyền lợi của các bên trên thực tế.

Đồng thời, việc xử lý tạm ứng phí trọng tài cũng có những lưu ý. Nếu so sánh với tố tụng Tòa án, nguyên đơn phải nộp tạm ứng án phí, trường hợp thắng kiện nguyên đơn sẽ được nhận lại số tiền tạm ứng đã nộp. Trong khi đó, với tố tụng trọng tài, nguyên đơn khi thắng kiện sẽ không được trả lại tạm ứng phí mà Hội đồng trọng tài sẽ tuyên bên thua kiện có trách nhiệm trả phí tạm ứng cho người khởi kiện.

Đặt trường hợp vụ án đòi công nợ, nguyên đơn trước hết phải nộp tạm ứng phí trọng tài theo giá trị vụ tranh chấp. Nếu sau này thắng kiện nhưng phía bên thua kiện không có điều kiện thi hành án khi đó nguyên đơn vừa không đạt được mục đích đòi công nợ vừa sẽ mất tiền tạm ứng phí trọng tài. Đây cũng là một vấn đề còn khiến các bên lưỡng lự khi lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

III. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG HÀI HÒA HÓA CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG

Việc tranh chấp thông qua Tòa án tuy vướng nhiều khó khăn, nhưng không thể phủ nhận giá trị pháp lý của bản án trong tranh chấp giữa các bên, trong khi đó, với sự thay đổi trong Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC 2017 về giải quyết tranh chấp, Trọng tài trực tiếp giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng xây dựng là ICC. Với sự thay đổi này, việc giải quyết tranh chấp Trọng tài thông qua ICC sẽ càng có nhiều khó khăn và trở ngại, đặc biệt là vấn đề chi phí tố tụng, thời gian, quy trình tố tụng phức tạp, khoảng cách địa lý gây tốn kém chi phí đi lại cho các bên, sự khác biệt về ngôn ngữ cũng khiến cho việc giải quyết tranh chấp trở nên phức tạp hơn…

Để tránh hoặc giảm thiểu những vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp về hợp đồng xây dựng, việc hài hòa hóa cơ chế giải quyết tranh chấp trong pháp luật xây dựng Việt Nam dựa theo Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC 2017 là vô cùng cần thiết.

Thứ nhất, cần đề cao vai trò của DAAB trong quy trình giải quyết khiếu nại và tranh chấp giữa các bên. DAAB tập hợp những kỹ sư có chuyên môn nghiệp vụ cao trong lĩnh vực xây dựng và thường có kinh nghiệm trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, thành phân của DAAB là do các bên tự đề xuất thành lập, hoạt động lâu dài và cố định, nên bên cạnh yếu tố về chuyên môn, DAAB vẫn đảm bảo được tính công bằng và khách quan. Ngoài ra, giải quyết mâu thuẫn và khiếu nại thông qua DAAB được ghi nhận là bước giải quyết bắt buộc đối với các bên, nhưng không phải là quyết định chung cuộc tước bỏ mọi quyền “không đồng ý” của các bên. Đây là ưu điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua DAAB: tiết kiệm chi phí so với cơ chế Tòa án, Trọng tài, tiết kiệm thời gian để các bên nhanh chóng giải quyết yêu cầu khiếu nại, kịp thời quyết định các vấn đề trọng yếu liên quan đến quá trình thực hiện hợp đồng.

Tuy nhiên, việc quy định cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua DAAB cũng cần có sự điều tiết phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, ở Việt Nam, Bản án của Tòa án và Quyết định của Trọng tài vẫn luôn có giá trị pháp lý cao đối với các bên, và giúp các bên tranh chấp có phần “yên tâm” hơn khi buộc bên còn lại phải thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, việc quy định giai đoạn giải quyết tranh chấp bắt buộc phải thông qua DAAB cần phải rõ ràng, cụ thể, mang tính thừa nhận cao. Trong bối cảnh hội nhập, khi càng nhiều hợp đồng xây dựng có yếu tố nước ngoài xuất hiện, quy định cụ thể cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua DAAB sẽ trở thành khung pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia hợp đồng.

Thứ hai, cần nâng cao vai trò của VECAS (Hiệp hội Tư vấn xây dựng Việt Nam – gia nhập FIDIC từ năm 1997) trong việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng xây dựng. Hiện nay, thực tế cho thấy ở Việt Nam, chưa có nhiều kỹ sư xây dựng vừa có chuyên môn cao và am hiểu sâu về lĩnh vực xây dựng. Đây cũng là rào cản rất lớn trong việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua DAAB. Vì vậy, pháp luật trước tiên cần ghi nhận những thay đổi của Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 2017 về DAAB để thúc đẩy việc trau dồi kỹ năng nghiệp vụ và chuyên môn của các kỹ sư xây dựng, chuyên gia tại Việt Nam, đồng thời cần củng cố vai trò đưa ra cố vấn chuyên môn của VECAS, để tranh điều khoản DAAB trở nên hình thức và kém hiệu quả. Ngoài ra, nên tạo điều kiện cho các bên tham gia hợp đồng xây dựng được lựa chọn các chuyên gia hoặc hội đồng kỹ sư của nước ngoài, nếu các bên có đủ điều kiện để lựa chọn và xét thấy cần thiết.

Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng thông qua Tòa án và Trọng tài. Không thể phủ nhận vai trò của Tòa án và Trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh – thương mại nói chung và xây dựng nói riêng. Dù DAAB có thể xem là phương án thuận tiện nhất cho các bên, thì với các tranh chấp phức tạp, Trọng tài và Tòa án vẫn là những cơ quan có đủ am hiểu về pháp luật tố tụng để đảm bảo quyền lợi và sự công bằng cần thiết. Nếu tương lai gần, pháp luật Việt Nam ghi nhận và “Việt hóa” Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC 2017, việc giải quyết tranh thấp bằng các quy định ràng buộc bởi ICC cũng sẽ được đề cập. Theo đó, việc giải quyết tranh chấp thông qua ICC sẽ càng làm phức tạp hóa quá trình giải quyết tranh chấp, gia tăng chi phí đối với các bên và kéo dài thêm thời gian tố tụng. Vì vậy, cần phải có sự linh hoạt trong việc áp dụng Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC 2017 đối với cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.

Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC 2017 đã được ban hành cách đây 4 năm, nhưng hiện tại, pháp luật xây dựng Việt Nam vẫn chưa có sự ghi nhận chính thức đối với các điều khoản trong FIDIC 2017. Điều này phần nào làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh, nếu như một bên áp dụng Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC 2017 trong khi bên còn lại muốn tuân thủ quy định pháp luật Việt Nam. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần có sự hài hóa hóa, cập nhật xu hướng chung của các quy định trong Bộ mẫu Hợp đồng FIDIC, đồng thời xem xét, rà soát các điều kiện thực tiễn tại Việt Nam để góp phần bảo vệ quyền lợi và sự công bằng cho các bên khi tham gia hợp đồng xây dựng, đặc biệt là những hợp đồng có yếu tố nước ngoài.

Bùi Trần Thùy Vy – Công ty Luật FDVN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Theo https://fidic.org/about-us, truy cập ngày 03/03/2021.

[2] Tiến sĩ Eugenio Zoppis (2018), “DAAB and Dispute Resolution under the 2017 FIDIC Forms of Contract”, Hội nghị ICC DRBF ở Sofia ngày 27-28/12/2018.

[3] Theo ICC, “Dispute boards”, https://iccwbo.org/dispute-resolution-services/dispute-boards/, truy cập ngày 03/03/2021.a

[4] Theo Sách đỏ FIDIC 2017 – Điều kiện hợp đồng xây dựng cho các công trình kiến trúc và công trình kỹ thuật do Chủ đầu tư thiết kế.

[5] Vinson & Elkins LLC, “FIDIC Red Book 2017: Top 7 Changes”, https://www.velaw.com/insights/fidic-red-book-2017-top-7-changes/, truy cập ngày 09/03/2021.

[6] Vinson & Elkins LLC, “FIDIC Red Book 2017: Top 7 Changes”, https://www.velaw.com/insights/fidic-red-book-2017-top-7-changes/, truy cập ngày 09/03/2021.

[7] Ths. Nguyễn Mai Linh, “Phương thức giải quyết tranh chấp trong mẫu điều kiện Hợp đồng FIDIC và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 22 (398), tháng 11/2019.

[8] Vinson & Elkins LLC, “FIDIC Red Book 2017: Top 7 Changes”, https://www.velaw.com/insights/fidic-red-book-2017-top-7-changes/, truy cập ngày 09/03/2021.

[9] Stephenson Harwood, (2018), “Dispute resolution under FIDIC 2017”, http://www.shlegal.com/insights/dispute-resolution-under-fidic-2017, truy cập ngày 07/04/2021.

[10] Tiến sĩ Eugenio Zoppis (2018), “DAAB and Dispute Resolution under the 2017 FIDIC Forms of Contract”, Hội nghị ICC DRBF ở Sofia ngày 27-28/12/2018.

[11] Vinson & Elkins LLC, “FIDIC Red Book 2017: Top 7 Changes”, https://www.velaw.com/insights/fidic-red-book-2017-top-7-changes/, truy cập ngày 09/03/2021.

[12] Phụ lục “General Conditions of Dispute Avoidance/Adjudication Agreement”, Sách đỏ FIDIC 2017.

[13] ICC, “ICC to decide DAAB challenges under 2017 FIDIC contracts”, https://iccwbo.org/media-wall/news-speeches/icc-decide-daab-challenges-2017-fidic-contracts/, truy cập ngày 08/04/2021.

[14] Nghị định 37/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng (“Nghị định 37/2015/NĐ-CP”); Thông tư 30/2016/TT-BXD của Bộ Xây dựng hướng dẫn hợp đồng thiết kế – cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình (“Thông tư 30/2016/TT-BXD”); Thông tư 08/2016/TT-BXD của Bộ Xây dựng hướng dẫn một số nội dung về hợp đồng tư vấn xây dựng (“Thông tư 08/2016/TT-BXD”); Thông tư 09/2016/TT-BXD của Bộ Xây dựng hướng dẫn hợp đồng thi công xây dựng công trình (“Thông tư 09/2016/TT-BXD”).

[15] Điều 45, Nghị định 37/2015/NĐ-CP

[16] Điều 21.1 Sách đỏ Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 2017

[17] Điểm b, Khoản 8, Điều 146 Luật Xây dựng 2014

[18] Khoản 21.4.1 Sách đỏ Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 2017

[19] Khoản 21.4.3 Sách đỏ Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 2017

[20] Khoản 2, Điều 45, Nghị định 37/2015/NĐ-CP

[21] Khoản 1, Điều 5, Luật Trọng tài thương mại 2010

[22] Điều 21.6 của Sách đỏ Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 2017

[23] Điều 21.6 của Sách đỏ Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 2017

[24] Khoản 21.4.3 Sách đỏ Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 2017

[25] Khoản 5, Điều 61 Luật Trọng tài thương mại 2010

[26] Điều 21.6 của Sách đỏ Bộ mẫu hợp đồng FIDIC 2017

[27] Minh Thư, “Giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng: “Được vạ thì má đã sưng””, https://www.viac.vn/tin-tuc-su-kien/giai-quyet-tranh-chap-hop-dong-xay-dung-duoc-va-thi-ma-da-sung-n977.html, truy cập ngày 09/04/2021.

[28] Thống kê tại trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của Tòa án http://congbobanan.toaan.gov.vn/.

[29] Toà Án Nhân Dân Thành Phố Hà Nội, Bản án 64/2017/KDTM-PT NGÀY 04/08/2017 về tranh chấp hợp đồng xây dựng, https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta4978t1cvn/chi-tiet-ban-an

[30] Tòa Án Nhân Dân Tỉnh Cà Mau, Bản án 01/2020/KDTM-PT NGÀY 20/02/2020 về tranh chấp hợp đồng thi công công trình xây dựng, https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta489903t1cvn/chi-tiet-ban-an

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

Bài viết liên quan