Feel free to go with the truth

Trang chủ / BIỂU MẪU VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Sửa án so thẩm vì chấp nhận khởi kiện đòi đủ diện tích đất của nguyên đơn còn thừa

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Sửa án so thẩm vì chấp nhận khởi kiện đòi đủ diện tích đất của nguyên đơn còn thừa

  1. Sửa án so thẩm vì chấp nhận khởi kiện đòi đủ diện tích đất của nguyên đơn còn thừa

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

 

[1] Tại Quyết định số 945/QĐ-UB ngày 20/8/1986, Ủy ban nhân dân thị xã Đông H, tỉnh Bình Trị Thiên (nay là UBND thành phố Đông H, tỉnh Quảng Trị) cấp cho gia đình ông Trần Vĩnh T 336m2 đất để xây dựng nhà ở (bút lục 113). Ngày 04/3/2004 Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) Đông H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số vào sổ 00521.QSDĐ/802/QĐ-UB công nhận hộ ông Trần Vĩnh T có quyền sử dụng thửa đất số 67, tờ bản đồ số 08, diện tích 310m2 tại khu phố 4, Phường 5, thành phố Đông H, tỉnh Quảng Trị. Ông T trình bày lý do diện tích đất UBND thị xã Đông H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông T nhỏ hơn diện tích đất ông T được Ủy ban nhân dân thị xã Đông H cấp năm 1986 vì trừ thêm đất hành lang đường.

[2] Ngày 26/4/2004, vợ chồng ông T ký Hợp đồng chuyển nhượng cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Thu Th 114m2 đất có kích thước rộng 6m, dài 18,94m. Ngày 28/5/2004 Ủy ban nhân dân thị xã Đông H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, công nhận vợ chồng bà Th có quyền sử dụng thửa đất số 67a, tờ bản đồ số 08 diện tích 114m2 loại đất ở. Năm 2011 vợ chồng bà Th chuyển nhượng thửa đất 67a lại cho vợ chồng ông Nguyễn Ngọc B, bà Lê Thị D và ngày 04/01/2011 vợ chồng ông B, bà D được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri BC 095819 đối với thửa đất số 137 (đổi từ số thửa 67a) tờ bản đồ số 08 diện tích 114m2. Ngày 26/01/2015 vợ chồng ông B, bà D chuyển nhượng toàn bộ thửa đất 137 cho bà Phạm Thị Lan H và ngày 05/02/2015 bà H được chỉnh lý đứng tên thửa đất 137 tại Trang 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri BC 095819.

[3] Sau khi chuyển nhượng một phần thửa đất số 67 cho vợ chồng bà Th thì diện tích đất còn lại hộ ông Trần Vĩnh T được UBND thị xã Đông H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri Đ635264 ngày 28/5/2004 đối với thửa đất số 67, tờ bản đồ số 08, diện tích 196,0m2 (bút lục 111).

[4] Sau khi nhận chuyển nhượng thửa đất 137 (đổi từ số thửa 67a) của vợ chồng ông B, bà D thì bà H xin và được UBND thành phố Đông H cấp Giấy phép xây dựng số 85/GPXD-UBNDF ngày 27/02/2015, kèm Sơ đồ mặt bằng xây dựng (bl 23, 24) thể hiện tứ cận thửa đất (phù hợp với Sơ đồ thửa đất vẽ trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri BC 095819 mà UBND thị xã Đông H cấp vợ chồng ông B, bà D ngày 04/01/2011, bà H được chỉnh lý sang tên tại trang 4 của Giấy chứng nhận – bl 21) cụ thể: Phía Đông Bắc giáp đất hộ ông Nguyễn Văn Tý dài 6m; phía Đông Nam giáp ngõ cụt dài 18,94m; phía Tây Nam giáp đường Tôn Thất Thuyết dài 19,18m; phía Tây Bắc giáp hộ ông Trần Vĩnh T dài 19,18m và bà H xây dựng nhà 2 tầng kiên cố và tại Biên bản làm việc ngày 23/4/2015 do UBND phường 5 tổ chức do bà H có khiếu nại thì bà H và ông T đã thống nhất ranh giới sử dụng theo thực tế, thống nhất không khiếu nại về sau (bút lục 41). Sau đó, bà H xin cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ngày 14/4/2017 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số sêri CD 995765 đối với thửa đất số 137 cho bà H với diện tích, kích thước đúng như diện tích, kích thước vẽ tại Sơ đồ thửa đất trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri BC 095819 ngày 04/01/2011 mà UBND thị xã Đông H cấp cho vợ chồng ông B, bà D (bút lục 227, 228).

[5] Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ do Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị chủ trì tổ chức ngày 09/10/2019 (bl 414 – 418) và Sơ đồ hiện trạng thửa đất do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Quảng Trị lập ngày 22/6/2020 (bl 538) thể hiện diện tích đất bà H đang quản lý, sử dụng là 121m2 là còn dư so với diện tích đất bà H nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông B, bà D và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Từ các tài liệu, chứng cứ viện dẫn trên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H để buộc gia đình ông T trả đất cho bà H là không có cơ sở, Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H (cho rằng bà H bị thiếu đất do ông T lấn chiếm) là có căn cứ, đúng pháp luật; Vì vậy, Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 20/KNGĐT-VKS-DS ngày 01/3/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị hủy Bản án phúc thẩm, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là không có cơ sở nên không được Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận.

[Nguồn: QĐGĐT số 20/2022/DS-GĐT Ngày 20/4/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:

📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn

♥️ Fanpage and Group:

https://www.facebook.com/fdvnlawfirm

https://www.facebook.com/lawyersindanang

https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat

https://www.facebook.com/groups/saymengheluat

https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam

🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Xem file đính kèm toàn văn QĐ: QĐGĐT số 46/2022/DS-GĐT

Bài viết liên quan

Hỗ trợ online