Hỏi: Chồng tôi bị bệnh nặng không qua khỏi nên đã mất cách đây hơn một tháng. Khi còn sống chồng tôi là cổ đông của một công ty cổ phần lớn, nay tôi tiếp nhận toàn bộ cổ phần của chồng tôi để lại. Cơ quan thuế bảo tôi phải nộp thuế thu nhập cả nhân trong khi đây là phần tài sản của vợ chồng chúng tôi đầu tư vào kinh doanh, được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, chồng tôi chỉ là người đứng tên cổ đông. Vậy cơ quan thuế có đúng không? Nguyễn Trần Diệp An (Thanh Khê, Đà Nẵng)
Trả lời: Theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân (đã được sửa đổi bổ sung năm 2012), Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Thông tư số 111/2013/TT-BTC hướng dẫn thì thu nhập chịu thuế của cá nhân có nhiều loại thu nhập khác nhau, trong đó có thu nhập từ nhận thừa kế. Theo đó, thu nhập từ nhận thừa kế là khoản thu nhập mà cá nhân nhận được theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế, trong đó có cổ phần của cá nhân trong công ty cổ phần. Liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, theo Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản của vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung. Bên cạnh đó, Điều 219 Bộ Luật dân sự có quy định sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
Như vậy, căn cứ theo các quy định của pháp luật, nếu không có các căn cứ chứng minh tài sản là phần vốn góp (cổ phần) nói trên là tài sản riêng của chồng bạn hoặc bạn thì tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nói trên được coi là tài sản chung của hai vợ chồng. Theo đó một nửa (1/2) số cổ phần là tài sản thuộc sở hữu của bạn, một nửa (1/2) cổ phần là tài sản thuộc sở hữu của chồng bạn trước khi chết. Do đó, phần vốn đứng tên chồng bạn thuộc sở hữu của thì khi chuyển sang tên bạn không phải là khoản thu nhập từ thừa kế nên không chịu thuế thu nhập cá nhân. Phần vốn đứng tên chồng bạn thuộc sở hữu của chồng bạn khi chuyển sang tên cho bạn hoặc cho người có quyền thừa kế khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật là khoản thu nhập từ thừa kế phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Bạn hoặc các đồng thừa kế phải chịu thuế thu nhập cá nhân trên một nửa (½) cổ phần do chồng bạn đứng tên để lại sau khi chết.
Luật sư LÊ CAO (Nguồn: Báo Tuổi trẻ)