Bị cáo Hoàng Văn Hưng luôn phủ nhận việc nhận 450.000 USD nhưng bằng các phương pháp thu thập chứng cứ, hoạt động thực nghiệm điều tra, đối chất và các hoạt động khác, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nếu có những chứng khác phù hợp với lời khai của các bị cáo, thì việc buộc tội đối với Hoàng Văn Hưng vẫn được tiến hành theo quy định của pháp luật.
Những ngày gần đây, dư luận đặc biệt quan tâm đến diễn biến phiên tòa xét xử 54 bị cáo trong vụ chuyến bay “giải cứu”. Một trong những tình tiết đáng chú ý nhất xoay quanh bị cáo Hoàng Văn Hưng (cựu Trưởng phòng thuộc Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an) và chiếc vali mà bị cáo Hưng nhận từ lái xe do Nguyễn Anh Tuấn gửi đến.
Trong vụ án này, bị cáo Hoàng Văn Hưng bị truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với số tiền 800.000 USD. Tuy nhiên, trong quá trình xét xử, bị cáo Hoàng Văn Hưng luôn phủ nhận chiếc vali mà bị cáo Hưng nhận từ lái xe do Nguyễn Anh Tuấn gửi đến không phải là 450.000 USD mà chỉ là 4 chai rượu vang.
Mặc dù trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Hoàng Văn Hưng luôn quanh co, chối tội, có thái độ không phù hợp, xúc phạm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, gây áp lực với bị cáo khác. Tuy nhiên, tại phiên xét xử, đại diện Viện kiểm sát đưa ra nhiều lập luận sắc bén, thuyết phục để buộc tội bị cáo Hoàng Văn Hưng.
Theo Luật sư Lê Cao – Công ty Luật FDVN, có một tình tiết, một vấn đề về chứng cứ buộc tội trong vụ án “chuyến bay giải cứu” rất được quan tâm đó là câu chuyện về chiếc cặp do bị cáo Nguyễn Anh Tuấn, cựu phó giám đốc Công an Hà Nội, chuyển cho bị cáo Hoàng Văn Hưng, vén màn “bí ẩn” bên trong vali đựng rượu hay 450.000 USD tiền chạy án là một vấn đề về chứng minh, chứng cứ rất quan trọng mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cần phải chứng minh để từ đó có kết luận nghi can có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội được thực hiện như thế nào.
Vậy nếu chỉ dựa vào lời khai của bị cáo Nguyễn Anh Tuấn thì có thể kết tội được bị cáo Hoàng Văn Hưng hay không, lời khai có phải là một chứng cứ để buộc tội?
Theo quy định tại Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Về nguồn chứng cứ, Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định có thể là Vật chứng; Lời khai, lời trình bày; Dữ liệu điện tử; Kết luận giám định, định giá tài sản; Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; Các tài liệu, đồ vật khác. Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.
Như vậy, lời khai, lời trình bày của các bị cáo trong vụ án chỉ là một nguồn chứng cứ, để buộc tội, cơ quan có thẩm quyền còn dựa vào các chứng cứ khác nhau. Ngay về lời khai, thì không chỉ dựa vào lời khai của bị cáo Nguyễn Anh Tuấn mà còn là Nguyễn Thị Thanh Hằng và Lê Hồng Sơn (Phó Giám đốc và Giám đốc Công ty Bluesky), lời khai của người lái xe và những người có liên quan, người làm chứng khác trong vụ án, ngay cả lời khai của Hoàng Văn Hưng cũng là nguồn chứng cứ để buộc tội hoặc gỡ tội. Về nguyên tắc, trong lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Thị Thanh Hằng, Lê Hồng Sơn đối với chính các bị cáo này là lời khai nhận tội, nhưng đối với bị cáo Hoàng Văn Hưng lại trở thành lời khai buộc tội.
Theo quy định tại Điều 98 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội. Như vậy, cơ quan điều tra, viện kiểm sát không thể dùng duy nhất lời khai của bị cáo Nguyễn Anh Tuấn hay Nguyễn Thị Thanh Hằng và Lê Hồng Sơn để buộc tội đối với chính các bị cáo này hoặc buộc tội đối với bị cáo Hoàng Văn Hưng, mà lời khai đó phải phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án.
Trong vụ án này, việc chứng minh vali chứa rượu vang hay 450.000 USD là một vấn đề rất quan trọng trong việc buộc tội đối với các bị cáo liên quan đến nhóm hành vi đưa, nhận và môi giới hối lộ. Nếu thực sự là rượu vang như bị cáo Hoàng Văn Hưng khai thì rõ ràng không thể kết tội bị cáo Hưng đối với khoản tiền được xem là chiếm đoạt này, khi đó tính chất của hành vi sẽ khác, thang số phạm tội sẽ khác, mức án sẽ khác. Không những là câu chuyện về tiền hay rượu, mà còn là vấn đề bao nhiêu tiền, hay bao nhiêu rượu, mọi thứ cần phải chứng minh không chỉ dựa trên lời khai của các bị cáo, mà còn dựa trên các chứng cứ khác được cơ quan có thẩm quyền thu thập, chứng minh.
Chẳng hạn, sáng 21/7/2023, tại phiên tòa, viện kiểm sát đã trình chiếu clip ghi lại hình ảnh Hoàng Văn Hưng nhận cặp số do ông Tuấn gửi đến. Khi trình chiếu, VKS còn thuyết trình, phân tích chi tiết, hành động của bị cáo được thể hiện trong clip với những lập luận, phân tích, dẫn chứng đối với bị cáo.
Như vậy, hoạt động điều tra cần được chứng minh theo đúng trình tự pháp luật, các chứng cứ khác phải được chứng minh sao cho chứng cứ lời khai phù hợp với các chứng cứ khác, và khi đó mới có cơ sở buộc tội đối với bị cáo. Chẳng hạn cần làm rõ câu chuyện chiếc vali có mật khẩu để mở, rồi các cuộc hội thoại giữa hai bên có trao đổi thông tin mật khẩu, các cuộc hội thoại có nội dung nêu về số tiền trong cặp, rồi thông tin, lời khai của người lái xe giao chiếc cặp, trong quá trình vận chuyển có biết mật khẩu không, có lấy bớt tiền đi không, hay có thay thế tiền bằng rượu hay không, hoặc có khoảng không thời gian nào bị cáo Tuấn nhận tiền xong, không bỏ tiền vào vali để gửi cho bị cáo Hưng mà thay vì bỏ tiền thì lại thế rượu vào không. Những vấn đề đó cần được chứng minh, cần được làm rõ, cần được khai thác có tính logic, hợp lý để có sự vững chắc giữa lời khai và các chứng cứ liên quan.
Với quy định, không thể chỉ dựa vào lời khai để buộc tội, trong khi hành vi phạm tội không được phát hiện và bắt giữ quả tang, nên theo Điều 204 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì để kiểm tra, xác minh tài liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra có thể thực nghiệm điều tra bằng cách dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc những tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết. Khi thực nghiệm điều tra phải đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, ghi rõ kết quả thực nghiệm điều tra vào biên bản.
Nếu trên cơ sở thực nghiệm điều tra, có thể tái dựng lại cả quá trình từ khai bỏ tiền vào vali, gửi cho người vận chuyển, người vận chuyển di chuyển, rồi khoảng cách đường đi, thời gian di chuyển, thời gian trao đổi thông tin, các tình huống xử lý đối với chiếc vali, trọng lượng vali, các thao tác cho cả quá trình được khởi dựng lại, những vấn đề đó khi có giá trị chứng minh trùng khớp với lời khai của các bị cáo là một cơ sở để chứng minh, buộc tội.
Có một vấn đề khác, là trong vụ án này, nếu có cơ sở chứng minh Hoàng Văn Hưng đã nhận 350.000 USD, thì cũng đã xác định trách nhiệm pháp lý theo khoản 4, Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nếu cơ quan điều tra chứng minh thêm được với khoản tiền 450.000 USD, thì về cơ bản, khung hình phạt đã nặng nhất không thay đổi, nhưng là cơ sở để xem xét về tính chất mức độ của hành vi, thang số phạm tội và các vấn đề về tịch thu, thu hồi tài sản phạm pháp.
Như vậy, luật hiện hành và các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự không cho phép chỉ dựa vào lời khai của bị cáo để làm cơ sở chứng minh tội phạm, việc chứng minh tội phạm khi dựa vào lời khai còn phải dựa vào các chứng cứ có liên quan khác, còn phải dựa vào các hoạt động thu thập chứng cứ, hoạt động thực nghiệm điều tra các hoạt động đối chất, chứng minh khác nhau trong quá trình điều tra và ngay cả trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Nếu bằng tất cả các phương thức kế hợp, mà không chứng minh được, không chứng minh lời khai của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác, chỉ dựa duy nhất vào lời khai thì không thể buộc tội đối với bị cáo.
Tuy nhiên, nếu bằng các phương pháp thu thập chứng cứ, hoạt động thực nghiệm điều tra, đối chất và các hoạt động khác, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có những chứng khác phù hợp với lời khai của các bị cáo, thì việc buộc tội đối với bị cáo vẫn được tiến hành theo quy định của pháp luật, Luật sư Lê Cao – Công ty Luật FDVN nhận định.
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn