Tóm tắt: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động toàn diện, sâu rộng và nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa là mục tiêu phấn đấu của Việt Nam, việc quan tâm đến vấn đề bảo hộ quyền bí mật cá nhân là điều cấp thiết. Nó đã tác động trực tiếp tới lĩnh vực pháp luật về bảo hộ bí mật cá nhân trên môi trường số/môi trường Internet cũng như trong đời thực. Thực tiễn xã hội cho thấy rằng, cơ sở dữ liệu chứa đựng những thông tin rất quan trọng liên quan đến bí mật cá nhân được lưu trữ trên máy tính và rất dễ bị lạm dụng. Mặc dù bí mật cá nhân được pháp luật bảo hộ nhưng chỉ trong những trường hợp luật định thì việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ về cơ sở dữ liệu cá nhân mới được thực hiện nhằm phục vụ cho việc bảo đảm an ninh quốc gia về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, đối ngoại và quốc phòng. Chính vì vậy, nội dung bài viết sẽ tập trung nghiên cứu về bảo hộ quyền bí mật cá nhân trong bối cảnh kỷ nguyên số, đưa ra những khó khăn, vướng mắc trong việc bảo hộ về quyền bí mật cá nhân từ đó có những ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Từ khóa: Bí mật cá nhân; Quyền về bí mật cá nhân; Bảo hộ về quyền đối với bí mật cá nhân; Bối cảnh kỷ nguyên số 4.0
1.1 Khái quát về kỷ nguyên số 4.0 (Cách mạng Công nghiệp 4.0)
Theo Gartner, Cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư) xuất phát từ khái niệm “Industrie 4.0” trong một báo cáo của Chính phủ Đức năm 2013. “Industrie 4.0” kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa Công nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong. Đó là xu hướng tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống không gian qua mạng như: Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)… để chuyển đổi toàn bộ thế giới thực thành thế giới số.
Sự bùng nổ của cuộc cách mạng 4.0 diễn ra trên nhiều lĩnh vực, trong đó không thể kể tới sự xuất hiện nhiều khoa học pháp lý hiện đại. Cuộc cách mạng 4.0 cũng xuất hiện trên phương diện giáo dục pháp lý bằng công nghệ thực tế ảo. Ngoài ra những đột phá trong công nghệ số còn giúp kết nối hàng tỷ người trên thế giới, giúp thay thế nhiều vị trí cho con người làm việc trong những môi trường khắc nghiệt, giúp khắc phục phương thức lưu trữ hồ sơ thủ bằng văn bản trên giấy thay vào đó là lưu toàn bộ hồ sơ liên quan đến pháp luật trên những thiết bị lưu trữ điện tử nhỏ gọn dễ quản lý, kiểm soát, khôi phục lại những tổn thất mà do các cuộc cách mạng trước đã gây ra. Tốc độ đột phá cách mạng 4.0 là không có tiền lệ trong lịch sử, khi so sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, 4.0 đang tiến triển theo hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý, quản trị, giáo dục. Nếu cách mạng 4.0 diễn ra nhanh chóng theo hướng tự động hóa, rô- bốt hóa các công đoạn trong sản xuất, quản lý, giáo dục,… thì người lao động sẽ có thời gian được nghỉ ngơi nhiều hơn hoặc có thời gian nghiên cứu làm những việc khác có tính tư duy cao. Tuy nhiên, mặc dù cách mạng công nghiệp 4.0 tạo nên một môi trường sống tuyệt vời nhưng không phải nó không kèm theo một số hệ lụy. Đó là những thay đổi về cách thức giao tiếp trên internet cũng đặt con người vào nguy hiểm về tài chính sức khỏe, thông tin, bí mật cá nhân nếu không được bảo vệ một cách an toàn sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường.
2.2 Khái niệm về quyền đối với bí mật cá nhân và pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân
Khái niệm về quyền bí mật cá nhân: Mặc dù Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định về quyền bí mật cá nhân là một quy định cấp thiết, quan trọng và là một điểm nhấn phản ánh quan điểm lập pháp và trình độ lập pháp ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, pháp luật chưa có một khái niệm cụ thể, rõ ràng nào về “Quyền đối với bí mật cá nhân”. Theo quan điểm của một số nhà trong công tác làm luật cho rằng “quyền về bí mật cá nhân là một quyền dân sự, là quyền nhân thân gắn với cá nhân bất khả xâm phạm, không thể chuyển giao và được pháp luật bảo hộ”. Trong đó, bí mật cá nhân thuộc về bí mật đời tư, là những thông tin hoặc quan hệ trong quá khứ, hiện tại liên quan đến cá nhân và cá nhân không muốn bộc lộ công khai vì có thể khi bộc lộ sẽ gây ảnh hưởng bất lợi hoặc gây ra sự hiểu lầm ở các chủ thể khác. Đồng thời, bản chất của bí mật cá nhân là không gây ra bất kỳ một thiệt hại nào cho các chủ thể khác.[1]
Khái niệm pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân: Theo góc nhìn của luật học có thể hiểu “pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh giữa cá nhân với cơ quan nhà nước, cá nhân hoặc tổ chức nhằm bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân không bị xâm phạm một cách tùy tiện”.
2.3 Đặc điểm của pháp luật về bảo về quyền đối với bí mật cá nhân
Thứ nhất: Các quy định pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Ngoài Hiến pháp năm 2013 thì rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác đã cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp góp phần tạo hành lang pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ bí mật cá nhân, cụ thể như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Luật An toàn thông tin mạng năm 2015, Luật Trẻ em năm 2016,…
Thứ hai: Pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân tập trung điều chỉnh các quan hệ xã hội về bí mật cá nhân. Nó điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể là Nhà nước với cá nhân, cá nhân với cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp… trong mối quan hệ liên quan đến bí mật cá nhân. Các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể này diễn ra trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống như: dân sự, thương mại, y tế, giáo dục,… Pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân ghi nhận quyền của cá nhân đối với bí mật cá nhân của mình và nghĩa vụ, yêu cầu, trách nhiệm đối với các chủ thể. Nó còn đòi hỏi ghi nhận trách nhiệm bảo vệ quyền bí mật cá nhân từ phía nhà nước thông qua những quy định cụ thể và nghĩa vụ của các chủ thể.
Thứ ba: Mục đích điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân nhằm ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật về bí mật cá nhân được pháp luật bảo vệ. Quy định của pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân là cơ sở để giải quyết tranh chấp phát sinh và xử lý vi phạm nhằm mục đích răn đe, giáo dục đối với các hành vi xâm phạm đến bí mật cá nhân một cách bất hợp pháp. Bên cạnh đó, pháp luật bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân còn có mục đích xây dựng, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng và bảo vệ bí mật cá nhân của người khác.
- Khái quát thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân trong bối cảnh kỷ nguyên số 4.0
2.1 Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân trong bối cảnh kỷ nguyên số
Thứ tư, buộc bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật cá nhân một cách bất hợp pháp khi chứa đựng đầy đủ ba yếu tố sau: (i) Có hành vi trái pháp luật. Quyền nhân thân về bí mật cá nhân là một quyền dân sự, bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo hộ. Do đó, hành vi xâm phạm đến bí mật cá nhân là hành vi trái pháp luật; (ii) Có thiệt hại thực tế xảy ra. Những thiệt hại về quyền đối với bí mật cá nhân do hành vi trái pháp luật gây ra được xác định là hành vi làm tổn thất về tinh thần, vật chất cho cá nhân được xác định, người gây thiệt hại có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần, vật chất cho người bị thiệt hại. Những khoản bồi thường thiệt hại do quyền đối với bí mật cá nhân bị xâm phạm là bồi thường thiệt hại về vật chất và bồi thường thiệt hại về tinh thần theo quy định tại Điều 592 Bộ luật Dân sự năm 2015; (iii) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật cá nhân và thiệt hại về vật chất, về tinh thần cho người bị thiệt hại. Quan hệ này là mối quan hệ phổ biến, quan hệ biện chứng giữa hành vi gây thiệt hại xảy ra. Hành vi gây thiệt hại về bí mật cá nhân là nguyên nhân của thiệt hại về vật chất và những tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại.
Cùng với đó, khi chủ thể có quyền về bí mật cá nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có thể tự bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân của mình phù hợp với tính chất, mức độ xâm phạm đến quyền dân sự đó và không được trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Đồng thời, cá nhân có thể bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân của mình thông qua cơ quan có thẩm quyền.
Hạn chế của thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân trong bối cảnh kỷ nguyên số:
Một là: Hệ thống các văn bản pháp luật chưa đầy đủ và toàn diện về các khía cạnh cần được làm rõ trong việc bảo hộ quyền đối với bí mật cá nhân. Ví dụ như: cho đến thời điểm hiện tại, chưa có một khái niệm nào về bí mật cá nhân là gì? Hay bảo hộ quyền đối với bí mật cá nhân là như thế nào? Do đó, rất khó có thể xác định được những loại bí mật cá nhân nào cần được bảo hộ và bảo hộ theo hướng như thế nào, mức độ bảo hộ ra làm sao,…., không được quy định cụ thể ở luật nào cả, nên làm cho cơ chế xử lý hậu quả chưa triệt để, các quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước chưa thống nhất, rõ ràng dẫn đến việc chồng chéo trong quản lý và xử lý khi có tranh chấp về quyền bí mật cá nhân xảy ra, giữa các cơ quan nhà nước với nhau.
Hai là: còn nhiều quy định chung chung, thiếu cụ thể, chi tiết nên rất khó áp dụng, dù trên thực tế đã phát sinh những vụ việc. Thực tế cho thấy, số lượng vụ việc xâm phạm về bí mật cá nhân là không ít, tuy nhiên, số vụ việc được giải quyết là rất hạn chế. Trong các nguyên nhân dẫn tới hiện tượng trên thì việc thiếu một định nghĩa cụ thể trong luật về “bí mật cá nhân” chính là một nguyên nhân chính, điều này khiến cho việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề liên quan đến bí mật cá nhân trở nên hết sức khó khăn do không xác định rõ ràng được những thông tin như thế nào mới là bí mật cá nhân và được pháp luật bảo vệ.
Ba là: Pháp luật nước ta chưa có quy định cụ thể về quyền đối với bí mật cá nhân mà chỉ được quy định tản mát trong một số văn bản pháp luật nên thiếu tập trung, giá trị pháp lý khác nhau khiến cho việc tiếp cận, chấp hành và thi hành gặp nhiều khó khăn. Các quy định pháp luật về bí mật cá nhân, bí mật đời tư,…, còn nằm rải rác trong nhiều loại văn bản khác nhau như: quy định trong Hiến pháp 2013; Bộ luật Dân sự 2015; Luật An toàn thông tin mạng 2015; Nghị định 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt hành hành chính khi trao đổi mua bán trái phép thông tin riêng tư của người khác; Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin người tiêu dùng; Thông tư liên tịch số 10/2012 ngày 10/9/2012 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, VKSND tối cao, TAND tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông, việc xác định hành vi mua bán thông tin cá nhân, rất khó để xác định hậu quả gây ra có nghiêm trọng hay không? Gây khó khăn cho việc tiếp cận cũng như chấp chấp hành và thi hành.
2.2 Thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền đối với bí mật cá nhân dưới tác động của kỷ nguyên số 4.0
Mặc dù đã được công nhận và bảo hộ nhưng khi áp dụng trong thực tiễn xã hội thì còn nhiều lúng túng, khó triển khai và chưa có sự định hướng hành vi và chế tài đối với hành vi vi phạm quyền bí mật cá nhân.
Trên lĩnh vực Internet: Bí mật cá nhân bị tiết lộ và sử dụng trái phép.
Quyền về bí mật cá nhân là một trong những quyền cơ bản quan trọng nhất của con người được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. Việc bảo vệ nó tưởng chừng như đơn giản, nhưng trên thực tế cho thấy, sự vi phạm đang rất phổ biến và dần trở thành mối lo cho toàn xã hội. Việc bảo hộ về quyền bí mật cá nhân thực sự khó khăn trong bối cảnh kỷ nguyên số, khi mà các thông tin sẽ được lan truyền rất nhanh chỉ sau một “nút share”, rất nhiều thông tin về bí mật cá nhân sẽ được phơi bày. Đặc biệt, việc lộ thông tin cá nhân, nhất là số điện thoại di động, tên tài khoản trên các mạng xã hội Facebook, Instagram, Zalo, Tiktok,… khiến người sử dụng gặp rắc rối vì tin nhắn rác, tin nhắn quảng cáo,… Tội phạm mạng có thể sử dụng chính những thông tin do chính chủ tự nguyện cung cấp để đe dọa tống tiền, bắt cóc, hoặc lừa người sử dụng chuyển tiền vào tài khoản của tội phạm. Nhưng cũng có rất nhiều người hoàn toàn hiểu đó là bí mật cá nhân của người khác nhưng vẫn cố tình làm lộ thông tin đó lên mạng, nhằm mục đích bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác hoặc vì mục đích trục lợi cá nhân từ chính những hành vi sai phạm đó.
Ví dụ như: Vừa qua ngày 23/6/2020 liên quan tới vụ việc facebook cá nhân của tiền vệ Nguyễn Quang Hải bị ‘hack’, phát tán nhiều tin nhắn nhạy cảm[2],đời sống riêng tư của cầu thủ CLB Hà Nội, trong đó có nhiều nội dung nhạy cảm, liên quan đến chuyện tình cảm của Quang Hải. Người này đăng những tin nhắn của Quang Hải, trong đó nổi bật là nội dung về mối quan hệ của cầu thủ Quang Hải cùng với nhiều cô gái khác nhau. Nam cầu thủ rất bức xúc khi việc anh bị lộ ảnh thân thiết với một cô gái tên Huyền My.
Trong thương mại, điện tử: Bí mật cá nhân bị đánh cắp, tiết lộ trái phép và trở thành tài sản bị mua bán tràn lan làm tiềm ẩn nhiều nguy cơ, rủi ro cho cá nhân.
Ví dụ thực tế, vừa qua ngày 17/11, Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Phú Thọ cho biết đã hoàn thành bản kết luận điều tra vụ án “Mua bán trái phép thông tin tài khoản ngân hàng”, “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; đề nghị Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp truy tố Nguyễn Lê Thanh Tú (34 tuổi, ở TP HCM) và 11 bị can liên quan vụ chiếm đoạt 3,1 tỷ đồng xảy ra tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) chi nhánh Đền Hùng (Phú Thọ).[3] Theo kết luận điều tra, với mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Nguyễn Lê Thanh Tú (trú tại quận Phú Nhuận, TP HCM) đã liên hệ với nhóm đối tượng là nhân viên các ngân hàng thương mại tại TP HCM mua thông tin của 54 tài khoản khách hàng mở tại các ngân hàng. Sau khi có thông tin tài khoản ngân hàng của một số doanh nghiệp, với nhiều thủ đoạn làm giả con dấu và tài liệu, ngày 20/11/2019 Tú và đồng bọn đã lừa đảo chiếm đoạt 3,1 tỷ đồng của một công ty mở tài khoản tại Vietinbank chi nhánh Đền Hùng.[4]
Hiện nay, việc mua bán thông tin cá nhân trên mạng Internet đang diễn ra hết sức công khai và rầm rộ. Chỉ cần gõ từ khóa “mua thông tin cá nhân” hay “danh sách khách hàng” lên google, lập tức có ngay hàng loạt trang điện tử hoặc tài khỏan Facebook rao bán đủ loại “data” cá nhân như tên tuổi, số điện thoại, email, ngành nghề, chức vụ và thậm chí là cả thu nhập hay số dư tài khoản ngân hàng…Tuy nhiên, việc định nghĩa dữ liệu, thông tin cá nhân cũng là công việc phức tạp, cho thấy tính tinh vi, nhạy cảm của môi trường tương tác giữa con người với nhau trong kỷ nguyên số và Internet. Một định nghĩa còn mang tính chung chung, trừu tượng trong các quy định của pháp luật Việt Nam rõ ràng chưa đủ để hình dung bản chất của khái niệm, nếu không tìm hiểu, đối chiếu và so sánh với quy định tương tự của các nước thì rất khó hiểu được về bản chất khái niệm được quy định trong luật.
Tại Việt Nam, việc rao bán các thông tin cá nhân là hành vi vi phạm pháp luật, được quy định ở các luật sau: Điều 21 Hiến pháp 2013; Điều 38, Điều 387 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 7 Luật An toàn thông tin mạng 2015… Tuy nhiên, việc bảo vệ thông tin cá nhân, bí mật cá nhân của khách hàng vẫn chưa được thực hiện, tuân thủ nghiêm chỉnh, chế tài xử phạt cho ành vi vi phạm còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Do đó, trên thực tế cho thấy việc mua bán thông tin cá nhân trên mạng internet đang diễn ra hết sức công khai và rầm rộ. Các chủ thể mua bán data của khách hàng đã phớt lờ đi pháp luật, nếu người có nhu cầu mua data thì có thể vào mạng và bấm tìm kiếm thì hàng loạt các website rao bán data hiện ra một cách công khai với những mức giá khác nhau tùy vào mục đích của những người cần sử dụng. Mức giá này dao động từ vài trăm nghìn đến vài triệu đồng, tùy theo loại dữ liệu, số lượng thông tin mà người mua yêu cầu.
Trong lĩnh vực y tế, giáo dục: thông tin của bệnh nhân, trẻ em chưa được kiểm soát đúng mức.
Gần đây về lĩnh vực y tế, theo công văn số 1090/BHXH-CNTT ngày 05/04/2019 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam gửi cho Bộ Y tế Việt Nam, đề nghị nhắc nhở các cơ sở y tế phải bảo mật thông tin trên mạng về bảo mật thông tin của người sử dụng, một số cơ sở y tế đã ký hợp đồng khám chữa bệnh với ngành bảo hiểm đã để lộ thông tin tài khoản và mật khẩu. Hậu quả, một số cá nhân lợi dụng việc này để xây dựng các ứng dụng khai thác trái phép cơ sở dữ liệu, thông tin khám bệnh, chữa bệnh BHYT thuộc Hệ thống thông tin giám định của BHXH Việt Nam.[5] Về quyền riêng tư của trẻ em, các quyền này của trẻ em chưa thật sự được tôn trọng, và tình trạng trẻ em bị xâm phạm quyền riêng tư diễn ra ngày càng có xu hướng nghiêm trọng. Một khảo sát gần đây của Trung tâm phát triển cộng đồng và công tác xã hội thực hiện trên năm tờ báo điện tử (thuộc top 50 trang web có lượng truy cập lớn nhất Việt Nam) cho kết quả khiến nhiều người lo ngại: trong vòng một năm, có đến 548 bài báo có nội dung không bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em, trong số này có tới 62% số bài báo mô tả một cách chi tiết cùng với bình luận về trẻ em một cách không phù hợp, thậm chí còn gây tổn thương cho các em; 39% số bài báo đăng ảnh của trẻ em trực diện khuôn mặt, vùng bị tổn thương cùng với gia đình hoặc nhà cửa, trường học.
Tóm lại, ta có thể thấy rằng pháp luật nước ta chưa quy định rõ về quyền được bảo hộ bí mật cá nhân, như thế khi bí mật cá nhân của người khác bị xâm phạm thì rất khó để cho các cơ quan có thẩm quyền xác định được chủ thể xâm phạm, cũng như rất khó để xác được mức độ thiệt hại của người bị xâm phạm. Vì pháp luật chưa quy định rõ về mức độ thiệt hại hay các điều kiện để có thể xác định được mức độ thiệt hại nhằm hướng đến chính sách bồi thường hợp lý của chủ thể bị xâm phạm. Tại Khoản 2 Điều 592 BLDS 2015 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Với quy định này đưa ra nhưng không nêu rõ hạn mức bồi thường thiệt hại đối với hành vi xâm phạm mà chỉ quy định bồi thường thiệt hại do cá bên tự thỏa thuận, như vậy không có cơ chế hay chế tài nào bảo đảm để cho bên xâm phạm thực hiện nghĩa vụ đối với bên bị xâm phạm. Những quy định pháp luật nước ta chưa quy định rõ ràng còn kẻ hở, chưa tạo được sự ràng buộc pháp lý đối với tất cả các chủ thể khi tham tham gia quan hệ pháp luật dân sự nói chung cũng như quan hệ pháp luật về bảo hộ quyền bí mật cá nhân nói riêng. Đồng thời, bí mật cá nhân được pháp luật bảo vệ và bất khả xâm phạm. Đây là quyền nhân thân gắn liền với mỗi công dân. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị bảo vệ bí mật đời tư của cá nhân rộng hơn Bộ luật Dân sự Việt Nam. Tuy nhiên, việc nội luật hóa các quyền về bí mật cá nhân vẫn chưa đầy đủ, đời hỏi các nhà làm luật tiếp tục hoàn thiện sao cho phù hợp với thực tế.
- Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân trong bối cảnh kỷ nguyên số 4.0
3.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật trong bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân
Một là, cần bổ sung khái niệm và phạm vi của quyền về bí mật cá nhân để có những chế tài phù hợp.
Mặc dù pháp luật nước ta có nhiều quy định liên quan đến bí mật cá nhân song vẫn chưa có một văn bản nào đưa ra được một định nghĩa chính thức về quyền này. Trước hết, xét về mặt ngữ nghĩa thì “bí mật” còn được giải thích là “giữ kín, không để lộ ra, không công khai”. Như vậy, có thể hiểu cơ bản bí mật cá nhân là một quyền nhân thân gắn với cá nhân được cá nhân đó giữ kín, không muốn bộc lộ công khai và những thông tin, tư liệu này nếu được công khai sẽ gây bất lợi cho cá nhân đó. Tuy nhiên, những “thông tin”, những “tư liệu”… như thế nào mới được coi là bí mật cá nhân và cần được pháp luật bảo vệ. Như chúng ta đã biết, đời sống cá nhân là một phạm trù rộng bao gồm rất nhiều phương diện, nhiều khía cạnh. Do vậy, không thể coi tất cả các mặt liên quan đến cá nhân là bí mật cá nhân, việc xác định phạm vi của “bí mật cá nhân” có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn pháp luật hiện nay.
Hai là, sửa đổi, bổ sung các quy định về chế tài với những hành vi vi phạm. Hiện nay, chế tài xử phạt vi phạm quyền về sự riêng tư nói chung và quyền về bí mật cá nhân nói riêng tại Việt Nam là chưa tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm, chưa đảm bảo tính răn đe. Vì vậy, Nhà nước cần sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan để quy định những hình thức chế tài nghiêm khắc hơn, nhất là quy định về chế tài bồi thường thiệt hại.
Ba là, sửa đổi quy định của Bộ luật Dân sự điều chỉnh quyền về bí mật cá nhân.
Hiện nay, “quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình” đang được sử dụng trong loại văn bản pháp luật. Tuy nhiên, quy định này vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, có ảnh hưởng rất lớn đến việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Để có cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, chính xác, khách quan và thống nhất trong việc áp dụng pháp luật để xác định, xử lý các hành vi xâm phạm cần phải sửa đổi điều luật này theo các hướng như sau: đưa ra một định nghĩa cụ thể, xác định rõ thế nào là bí mật cá nhân, bí mật gia đình? Đây sẽ là cơ sở để xác định một thông tin cụ thể có được coi là thuộc bí mật cá nhân, bí mật gia đình hay không, là căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền của cá nhân đối với bí mật cá nhân, bí mật gia đình khi quyền đó bị xâm phạm; Xác định giới hạn và nhận diện những thông tin nào thuộc vào phạm vi “bất khả xâm phạm” của bí mật cá nhân, bí mật gia đình? Đối với các hành vi bị cấm bổ sung thêm hành vi tiêu hủy, làm mất thông tin của cá nhân.
Bốn là, ban hành văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thi hành và bảo vệ quyền về bí mật cá nhân, bí mật gia đình.
Ban hành văn bản dưới luật hướng dẫn về quyền đối với bí mật cá nhân, bí mật gia đình là hết sức cần thiết, nhất là trong bối cảnh chúng ta xây dựng và ban hành Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa lâu. Các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về “quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình” mới chỉ là những quy định mang tính chất chung nhất. Bộ luật Dân sự năm 2015 không thể liệt kê tất cả các thông tin được coi là thuộc về bí mật cá nhân, bí mật gia đình cũng như các hành vi xâm phạm, các biện pháp bảo vệ quyền về bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Chính vì thế, trước mắt, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cần ban hành Nghị quyết hướng dẫn quy định của Bộ luật Dân sự đối với “quyền về bí mật cá nhân, bí mật gia đình”, từ đó có thể tiến tới việc Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự đối với “quyền về bí mật cá nhân, bí mật gia đình”. Sự lúng túng của một số Toà án trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến nhóm quyền này trong thời gian qua là một trong những minh chứng cho thấy sự cần thiết ban hành văn bản hướng dẫn liên quan đến quyền về bí mật cá nhân, bí mật gia đình, điều đó khiến cho việc hiểu và áp dụng pháp luật được thống nhất. Cụ thể, văn bản hướng dẫn được đề cập ở trên phải có các nội dung chủ yếu sau đây: Cần giải thích rõ khái niệm để mọi người dễ dàng hiểu được thế nào là bí mật cá nhân, bí mật gia đình; Đối với những thông tin được coi là thuộc về bí mật cá nhân, bí mật gia đình cần có văn bản hướng dẫn cần khái quát chung các đặc điểm liên quan đến thông tin được coi là thuộc về bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Sau đó có thể có sự liệt kê một cách cụ thể, chi tiết các thông tin được coi thuộc về bí mật cá nhân, bí mật gia đình; Đối với các hành vi bị coi là xâm phạm bí mật cá nhân, bí mật gia đình: Cần xác định giới hạn của bí mật cá nhân, bí mật gia đình, trên cơ sở đó xác định rõ ràng, cụ thể các hành vi bị coi là xâm phạm bí mật cá nhân, bí mật gia đình cũng như những hành vi không bị coi là xâm phạm bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong những trường hợp cụ thể; Đối với các biện các biện pháp bảo vệ quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình phải được mô tả chi tiết với những yêu cầu cụ thể liên quan đến việc áp dụng các biện pháp này để bảo vệ quyền lợi cho chủ thể liên quan đến quyền bí mật đời tư.
Năm là, cần có luật bảo vệ quyền về bí mật cá nhân.
Bí mật cá nhân tuy được bảo vệ trong Bộ luật Hình sự và BLDS hiện hành nhưng chỉ được viện dẫn khi có “thiệt hại” của nạn nhân chứ chưa quy định một cách cụ thể, đầy đủ như ai là người có quyền thu thập thông tin cá nhân người khác, trình tự thu thập, lưu giữ, sử dụng, tiết lộ thông tin cá nhân như thế nào? Hơn nữa, theo quy định của Bộ luật Dân sự thì cũng thật khó xác định mức độ thiệt hại thực tế như thế nào trong trường hợp bí mật cá nhân bị xâm phạm. Đặc biệt, đó là sự thiếu vắng hành lang pháp lý để bảo vệ bí mật cá nhân không bị tiết lộ cũng như những chế tài (dân sự, hành chính và hình sự) áp dụng đối với ngay cả những trường hợp không có thiệt hại xảy ra nhằm bảo vệ quyền hợp pháp của công dân cũng như mang tính giáo dục chung.
Với cách tiếp cận các vấn đề đặt ra từ sự đòi hỏi khách quan thực tiễn cuộc sống, sự cần thiết có một đạo luật về bí mật đời tư dựa trên những nguyên tắc cốt lõi nhất định sẽ tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng, góp phần tích cực bảo vệ quyền về bí mật cá nhân, bí mật gia đình của các cá nhân trong cộng đồng.
Sáu là, cần xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn thiện về bảo hộ quyền được bảo vệ bí mật cá nhân, thông tin cá nhân, dữ liệu và quyền riêng tư cá nhân là rất cần thiết để vừa đảm bảo tôn trọng quyền công dân và góp phần cho nền kinh tế số được vận hành trên cơ sở dữ liệu trong thời đại hiện nay. Các quy định của pháp luật và chương trình của nhà nước cần xây dựng các giải pháp bảo vệ quyền bí mật cá nhân cho người dân. Bên cạnh đó cần có một khung chế tài cho phép người bị xâm phạm quyền bí mật cá nhân lên tiếng khiếu kiện khi có vi phạm quyền bí mật cá nhân của họ là điều cần thiết. Các tổ chức xã hội, các tổ chức phi lợi nhuận nên có vai trò tích cực đại diện cho người bị xâm phạm tham gia quá trình đó. Đồng thời, cần xây dựng Luật Bảo vệ dữ liệu, thông tin cá nhân của khách hàng (data) nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt các quy định pháp lý cụ thể về bảo vệ dự liệu,bí mật cá nhân, đồng thời khắc phục được tình trạng quy định vừa trùng lặp vừa phân tán trong nhiều văn bản chuyên ngành. Hoàn thiện một bộ luật trong đó bao gồm các quy định về vấn đề bảo vệ dữ liệu, thông tin cá nhân và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng chính sách bảo mật cũng như có những chế tài thật mạnh có sức răng đe cần thiết đối với tội phạm công nghệ cao hoặc xử phạt các doanh nghiệp làm rò rỉ thông tin người dùng, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người dùng.
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân
Một là: Bảo đảm nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy về bảo vệ quyền đối với cá nhân. Như đã phân tích, quyền đối với bí mật cá nhân là quyền con người cơ bản, có ý nghĩa quan trọng, được công nhận và bảo vệ. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã cải thiện đáng kể đời sống của con người, song cũng là mối nguy lớn về quyền bí mất cá nhân. Ở Việt Nam, quyền riêng tư được bảo vệ bởi Hiến pháp và nhiều luật chuyên ngành, song trong thực tế sự bảo vệ của Nhà nước với quyền này còn thiếu hiệu quả, những nỗ lực đã được thực hiện chưa tương xứng với tầm quan trọng của nó. Đặc biệt, Luật An ninh mạng hiện còn có những lỗ hổng tiềm ẩn khả năng cơ quan nhà nước tuỳ tiện can thiệp vào đời tư thông qua việc thu thập dữ liệu riêng tư của cá nhân. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để thúc đẩy và bảo vệ hiệu quả hơn quyền về sự riêng tư nói chung, quyền về dữ liệu cá nhân nói riêng theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Hai là: Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục để nâng cao ý thức xã hội và xây dựng văn hóa pháp lý về bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực liên quan đến bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân; đề cao trách nhiệm và tăng cường phối hợp giữa cơ quan nhà nước, các chủ thể liên quan trong việc bảo vệ quyền đối với bí mật cá nhân.
Trong thời đại công nghệ số hóa phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc đưa các thông tin cá nhân của mình lên mạng để sử dụng vào những mục đích khác nhau đã dần trở nên quen thuộc. Việc làm này một mặt giúp thuận tiện hơn trong việc sử dụng các dịch vụ xã hội, nhưng mặt trái của nó là tồn tại những nguy cơ bị người khác đánh cắp thông tin. Để đảm bảo quyền bí mật cá nhân và khắc phục những tồn đọng, vướng mắc về việc bảo hộ quyền bí mật cá nhân và từng bước phát triển nội dung của hệ thông pháp luật Việt Nam đòi hỏi phải có tính khả thi trong thực tiễn. Như vậy, việc bảo hộ quyền bí mật cá nhân là cấp thiết, quan trọng và là một điểm nhấn phản ánh quan điểm lập pháp và trình độ lập pháp ở Việt Nam hiện nay.
Mai Thị Ngọc Trinh & Nguyễn Văn Công Định
GVHD : CN. Trần Chí Thành
*Bài viết lấy từ Hội thảo Khoa học Sinh viên “Sinh viên với pháp luật dân sự trong bối cảnh kỷ nguyên 4.0”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] https://kiemsat.vn/quyen-ve-doi-song-rieng-tu-bi-mat-ca-nhan-bi-mat-gia-dinh-49898.html
[2] Nguyễn Hoàn, Kẻ cố ý hack facebook, làm lộ tin nhắn riêng tư của Quang Hải bị xử lý ra sao? Trang web, https://www.tienphong.vn/phap-luat/ke-co-y-hack-facebook-lam-lo-tin-nhan-rieng-tu-cua-quang-hai-bi-xu-ly-ra-sao-1677392.tpo
[3] Nguyễn Hưởng, trang web https://nld.com.vn/phap-luat/nhieu-can-bo-ngan-hang-ban-thong-tin-cho-toi-pham-chiem-doat-tien-ti-cua-khach-hang-20201117124458058.htm
[4] Vụ án mua bán trái phép thông tin khách hàng để lừa đảo: Ngân hàng nói gì?, trang web http://toquoc.vn/ngan-hang-noi-gi-trong-vu-an-mua-ban-trai-phep-thong-tin-khach-hang-de-lua-dao-42020181116213996.htm
[5] Lường Toán, “Rò rỉ thông tin bệnh nhân khám chữa bệnh bằng Bảo hiểm Y tế”, Trang web của Trường Cao đẳng y dược TP. Hồ Chí Minh, nguồn <https://caodangyduochochiminh.vn/tin-tuc-y-duoc/ro-ri-thong-tin-benh-nhan-kham-chua-benh- bang-bao-hiem-y-te-c24799.html >
[6] Hiến pháp năm 2013
[7] Bộ luật Dân sự 2015
[8] Luật An toàn thông tin mạng 2015