Người sử dụng lao động phải truy đóng các khoản tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; Phải trả đủ lương ngưng việc, lương tháng 13, tiền phép năm.
Bản án số 185/2018/LĐ-ST. Ngày 28-11-2018 V/v tranh chấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và tiền lương.
Trong ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H
xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 72/2018/TLST – LĐ ngày 03 tháng 5 năm 2018,
về tranh chấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và tiền lương theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 476/2018/QĐXXST-LĐ ngày 15 tháng 10 năm 2018
và Quyết định hoãn phiên tòa số 331/2018/QĐST-LĐ ngày 05/11/2018, giữa:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị B, sinh năm 1970;
Địa chỉ: huyện C, tỉnh Đ.
Địa chỉ liên lạc: huyện B, Thành phố H.
Có ông Dương Thế Ng, đại diện ủy quyền theo giấy ủy quyền lập ngày 28/3/2018,
có chứng thực số 02788/2018, quyển số 01/2018-SCT/CK, ĐC. (Có đơn xin xét xử vắng
mặt).
Bị đơn: Công ty TNHH BV;
Địa chỉ: quận B, Thành phố H.
Đại diện theo pháp luật: Ông P, chức vụ giám đốc Công ty TNHH BV. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện và bản tự khai, Bà Trần Thị B có ông Dương Thế Ng là đại
diện ủy quyền, trình bày: Bà B là người lao động làm việc tại Công ty TNHH BV từ năm
2012 có ký hợp đồng lao động số 468 HĐLĐ/BJ-2012 ngày 01/8/2012 và sau đó tiếp tục 2
ký hợp đồng lao động số HD3-00383/HĐLĐ ngày 04/8/2014. Hiện nay Công ty TNHH
BV đã ngưng hoạt động từ sau kỳ nghỉ tết âm lịch vì người sử dụng lao động không có
mặt tại doanh nghiệp, công ty chỉ đóng Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho bà B đến hết tháng 5/2017, và chưa giải quyết các chế độ khác cho bà B.
Vì vậy để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bà B yêu cầu Tòa án giải quyết
các vấn đề sau: Buộc Công ty TNHH BV phải truy đóng các khoản tiền bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong giai đoạn từ tháng 6/2017 đến tháng 01/2018
với số tiền là 9.108.706 đồng. Đồng thời yêu cầu Công ty TNHH BV thanh toán các
khoản sau: 70% tiền lương ngừng việc trong tháng 10/2017 là 1.552.815 đồng; tiền lương
tháng 2/2018 (tính đến ngày 12/2/2018 là ngày làm việc cuối cùng) tương đương 09 ngày
lương là 3.080.621 đồng; tiền phép năm (15 ngày) của năm 2017 là 2.430.577 đồng và
tiền lương của tháng 13 năm 2017 là 4.269.798 đồng. Công ty TNHH BV phải phải truy
đóng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và thanh toán các
khoản tiền nói trên làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Bà B rút lại yêu cầu khởi kiện về chốt và trả sổ bảo hiểm xã hội đối với Công ty
TNHH BV.
Công ty TNHH BV đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai, yêu cầu có mặt để
Tòa án tiến hành xét xử giải quyết việc tranh chấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp và tiền lương với bà B nhưng vắng mặt không có lý do. Tòa án tiến hành
xét xử vắng mặt đối với Công ty TNHH BV.
Tại phiên toà hôm nay:
Bà Trần Thị B có ông Dương Thế Ng đại diện ủy quyền vẫn giữ yêu cầu khởi kiện
và có đơn xin xét xử vắng mặt.
Công ty TNHH BV đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai, yêu cầu có mặt để
Tòa án tiến hành xét xử giải quyết việc tranh chấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp và tiền lương với bà B, nhưng vắng mặt không có lý do.
Căn cứ Điều 228, Bộ luật tố dụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các
đương sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án tới trước thời điểm xét xử, thấy rằng Thẩm
phán đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật như thụ lý và giải quyết đúng thẩm quyền,
xác định đúng quan hệ tranh chấp, tư cách và mối quan hệ của những người tham gia tố
tụng. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án đúng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự,
tuân thủ đúng pháp luật; Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng pháp luật. Các đương sự đã thực
hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.
Về nội dung: Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của
đương sự, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và
căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Quan hệ pháp luật trong vụ án này là tranh chấp về bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và tiền lương, Công ty TNHH BV có trụ sở tại quận
B, Thành phố H, theo quy định tại Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; Điều 39 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015, thì vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
quận B, Thành phố H.
Bà Trần Thị B làm việc tại Công ty TNHH BV và giữa đôi bên có ký hợp đồng lao
động từ năm 2014, đây là quan hệ lao động được xác lập khi Bộ luật lao động năm 2012
có hiệu lực, nên áp dụng các quy định của Bộ luật lao động năm 2012 và các văn bản pháp
luật hướng dẫn áp dụng, để giải quyết.
[2]. Về nội dung: Giữa bà Trần Thị B với Công ty TNHH BV có ký hợp đồng lao
động không xác định thời hạn số HD3-00383/HĐLĐ ngày 04/8/2014. Trong quá trình
làm việc tại Công ty TNHH BV thì phía công ty không thực hiện đóng đầy đủ các chế độ
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc đối với bà B từ tháng
6/2017 đến tháng 01/2018 và không thanh toán các khoản: tiền lương ngừng việc tháng
10/2017; tiền lương tháng 2/2018; tiền phép năm 2017 và tiền lương tháng 13 của năm
2017 như thỏa thuận trong hợp đồng lao động số HD3-00383/HĐLĐ ngày 04/8/2014 đã
được ký giữa đôi bên. Nên, bà B có ông Dương Thế Ng đại diện ủy quyền, gửi đơn yêu
cầu Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận B hòa giải. Ngày 17/4/2018, Phòng
Lao động Thương binh và Xã hội quận B đã cử Hòa giải viên lao động tiến hành hòa giải
giữa đôi bên, tuy nhiên không thể hòa giải được do phía người sử dụng lao động là Công
ty TNHH BV vắng mặt nên Hòa giải viên lao động đã lập biên bản hòa giải không thành
vụ tranh chấp lao động. Vì vậy, bà B khởi kiện buộc Công ty TNHH BV phải truy đóng
các khoản tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp thanh toán các khoản
tiền lương còn thiếu nói trên.
Qua yêu cầu của bà Trần Thị B, HĐXX xét thấy:
Đối với yêu cầu Công ty TNHH BV phải truy đóng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong giai đoạn từ tháng 6/2017 đến tháng 01/2018 với số
tiền là 9.108.706 đồng.
Theo khoản 2 Điều 21 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định trách nhiệm của
người sử dụng lao động: “Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 86 và hằng tháng
trích từ tiền lương của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này để
đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội”.
Theo danh sách mà Công ty TNHH BV chưa thực hiện đóng các khoản tiền bảo
hiểm cho người lao động do Bảo hiểm xã hội quận B, Thành phố H cung cấp, thì: Công ty
TNHH BV chưa đóng các khoản tiền bảo hiểm cho bà Trần Thị B, có sổ BHXH số
7912250348, là 9.108.706 đồng. Do đó, yêu cầu của bà B về việc buộc Công ty TNHH
BV phải truy đóng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp với số
tiền là 9.108.706 đồng là có cơ sở chấp nhận.
Đối với yêu cầu buộc Công ty TNHH BV thanh toán các khoản sau: 70% tiền lương
ngừng việc trong tháng 10/2017 là 1.552.815 đồng; tiền lương tháng 2/2018 (tính đến 4
ngày 12/2/2018 là ngày làm việc cuối cùng) tương đương 09 ngày lương là 3.080.621
đồng; tiền phép năm (15 ngày) của năm 2017 là 2.430.577 đồng và tiền lương của tháng
13 năm 2017 là 4.269.798 đồng.
Theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật lao động năm 2012 quy định: “Tranh chấp lao động
cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa
án giải quyết, trừ các tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa
giải: a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; b) Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm
dứt hợp đồng lao động; c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động; d)
Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo
quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế; đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động
với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng”.
Như vậy, bà B có tranh chấp về tiền lương, đây là tranh chấp thuộc trường hợp phải
thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết.
Ngày 17/4/ 2018, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội quận B đã tiến hành hòa giải
đối với tranh chấp trên và Hòa giải viên lao động đã lập biên bản hòa giải không thành vụ
tranh chấp lao động. Do đó, yêu cầu của bà B là đúng theo quy định của pháp luật được
quy định tại khoản 1 Điều 201 của Bộ luật lao động năm 2012 và Điều 32 của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ: Bảng tính lương tháng 10/2017, thì Công ty TNHH BV còn nợ lương bà B
số tiền là 1.552.815 đồng; Bảng tính lương tháng 02/2018 thì Công ty TNHH BV còn nợ
lương bà B số tiền là 3.080.621 đồng; Bảng lương phép năm 2017, bà B được nhận số tiền
phép năm là 2.430.577 đồng và danh sách thưởng năm 2017 (lương tháng 13 của năm
2017) mà Công ty TNHH BV chưa thanh toán cho bà B là 4.269.798 đồng.
Do đó, yêu cầu của bà B buộc Công ty TNHH BV phải thanh toán các khoản còn nợ
gồm: tiền lương ngừng việc tháng 10/2017; tiền lương tháng 2/2018; tiền phép năm của
năm 2017 và tiền lương của tháng 13 năm 2017 với tổng cộng số tiền là 11.333.811 đồng
(Mười một triệu ba trăm ba mươi ba ngàn tám trăm mười một đồng), thanh toán làm một
lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật, là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.
Ngày 27/6/2018, Bà B có ông Dương Thế Ng rút lại yêu cầu khởi kiện về chốt và trả
sổ Bảo hiểm xã hội đối với Công ty TNHH BV.Việc rút yêu cầu của bà B là tự nguyện,
Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết yêu cầu này.
[3]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B: Căn cứ tài liệu chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu
cầu của nguyên đơn, là phù hợp với quy định của pháp luật, có căn cứ nên chấp nhận.
[4]. Về án phí lao động sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết 326 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; khoản 3 Điều 144 và Điều 147
Bộ luật Tố tụng dân sự, thì Công ty TNHH BV có nghĩa vụ truy đóng các chế độ bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và phải thanh toán các khoản tiền còn nợ
cho bà B với tổng cộng số tiền là 20.442.517 đồng nên phải chịu án phí trên số tiền phải
thực hiện nghĩa vụ là 20.442.517 đồng. 5
Số tiền án phí là 20.442.517 đồng x 3% = 613.275,51 đồng => 613.276 đồng. Công
ty TNHH BV phải chịu án phí là 613.276 đồng.
Đơn khởi kiện của bà Trần Thị B thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án
phí nên không phải hoàn lại tiền tạm ứng án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản khoản 1 Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 146; Điều
147; Điều 203; Điều 217; Điều 220; Điều 227; Điều 228 và Điều 235 Bộ luật tố tụng dân
sự ;
Căn cứ các điều 22, 90, 96, 98, 103, 111, 114 và 201 Bộ luật lao động năm 2012;
Căn cứ Điều 17; khoản 2 Điều 21 và khoản 3 Điều 122 Luật bảo hiểm xã hội năm
2014;
Căn cứ Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự 2015;
Căn cứ Nghị quyết 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của UBTVQH.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị B.
* Buộc Công ty TNHH BV phải truy đóng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà Trần Thị B (sổ BHXH số 7912250348) từ tháng 6/2017
đến tháng 01/2018 với số tiền là 9.108.706 đồng (Chín triệu, một trăm lẻ tám nghìn, bảy
trăm lẻ sáu đồng). Truy đóng làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp Công ty TNHH BV chậm truy đóng các khoản bảo hiểm xã hội trên thì
Công ty TNHH BV còn phải nộp số tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm
xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng.
* Buộc Công ty TNHH BV phải thanh toán cho bà Trần Thị B các khoản gồm: tiền
lương ngừng việc tháng 10/2017; tiền lương tháng 2/2018; tiền phép năm của năm 2017
và tiền lương của tháng 13 năm 2017 với tổng cộng số tiền là 11.333.811 đồng (Mười một
triệu ba trăm ba mươi ba ngàn tám trăm mười một đồng), thanh toán làm một lần ngay sau
khi án có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp Công ty TNHH BV chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả
tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả theo quy định tại khoản 2
Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu của bà Trần Thị B về việc buộc Công ty TNHH BV
phải làm thủ tục chốt và trả sổ Bảo hiểm xã hội.
Đôi bên thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
3. Án phí LĐST: Công ty TNHH BV phải chịu án phí là 613.276 đồng (Sáu trăm
mười ba đồng hai trăm bảy mươi sáu ngàn đồng).
Đơn khởi kiện của bà Trần Thị B thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí nên không phải hoàn lại tiền tạm ứng án phí.
Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại địa phương. Đối với yêu cầu khởi kiện do đương sự rút yêu cầu đã được đình chỉ, đương sự bà Trần Thị B được kháng cáo trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại địa phương. “Trường hợp quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”
……………………………………………………………………………………………………………………………
Luật sư tại Đà Nẵng:
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại Phú Quốc:
65 Hùng Vương, thị trấn Dương Đông, huyện đảo Phú Quốc.
Website: www.fdvn.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0935 643 666 – 0906 499 446
Fanpage: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/