Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / 5 vấn đề pháp lý cần được xem xét lại nhìn từ các Bản án xét xử ông Phan Văn Anh Vũ

5 vấn đề pháp lý cần được xem xét lại nhìn từ các Bản án xét xử ông Phan Văn Anh Vũ

1. MỘT TÒA ÁN, HAI CÁCH XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI …
Câu hỏi của ông Phan Văn Anh Vũ hỏi chúng tôi từ trại tạm giam T16, về mặt chức trách nghề nghiệp, chúng tôi sẽ có những quan điểm để bào chữa, bảo vệ ông Vũ trong một số quy trình tố tụng về hình sự hoặc dân sự qua các công việc cụ thể thời gian tới.

Còn luận bàn các đề pháp lý liên quan, trên cơ sở hệ thống hồ sơ, các văn bản tố tụng đã có hiệu lực pháp luật, chúng tôi sẽ nêu góc nhìn của chúng tôi đối với các nội dung bản án đã tuyên, qua đó gợi mở những vấn đề pháp lý khách quan để chúng ta có thể cùng nhìn tới hoạt động tố tụng, trong mong muốn hướng đến đến sự công bằng và chuẩn mực công lý, vốn những giá trị đó không dành riêng cho bất kỳ một cá nhân nào.

Trước hết, điều mà chúng tôi muốn đề cập ngay đó là câu chuyện xác định thiệt hại trong các vụ án mà ông Phan Văn Anh Vũ có mặt ở vị trí người bị buộc tội. Ở đó, thiệt hại có vai trò rất quan trọng để xác định cấu thành tội phạm, nó là cơ sở để định tội danh và định khung hình phạt trong các tội theo Điều 219 (Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí”), Điều 229 (Vi phạm các quy định về quản lý đất đai), Điều 356 (Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ) tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Nếu xác định đúng hoặc không đúng thiệt hại chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc xác định đúng hay không đúng tội danh hoặc đúng hoặc không đúng khung hình phạt được áp dụng cho người bị buộc tội.

Vậy, Tòa án án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, qua hai bản án hình sự đã có những nhận định, kết luận và cách áp dụng pháp luật như thế nào để xác định thiệt hại được cho là do ông Phan Văn Anh Vũ gây ra tại các vụ án? Chúng ta có thể xem qua nội dung được lược ra từ các bản án dưới đây:

1. BẢN ÁN SỐ 346/2019/HS-PT NGÀY 13/6/2019 CỦA TAND CẤP CAO TẠI HÀ NỘI XÉT XỬ BỊ CÁO PHAN VĂN ANH VŨ VÀ 4 BỊ CÁO KHÁC VỀ TỘI “LỢI DỤNG CHỨC VỤ QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ” VÀ “THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG”

– Số tiền Phan Văn Anh Vũ đã thanh toán/nộp Ngân sách Nhà nước tại thời điểm giao dịch thuê/nhận giao/nhậnchuyển nhượng nhà đất (được xem là thời điểm thực hiện hành vi phạm tội): 1.757.825.000.000 đồng (1)

– Giá trị tài sản theo giá thị trường tại thời điểm giao dịch (được cho là thời điểm thực hiện hành vi phạm tội): 1.893.213.822.503 đồng (2)

– Giá trị tài sản theo giá thị trường tại thời điểm khởi tố (7/02/2018): 2.916.825.000.000 đồng (3)

CÁCH TÍNH THIỆT HẠI CỦA TAND CẤP CAO TẠI HÀ NỘI: Thiệt hại được tính là khoản chênh lệch giữa Giá trị tài sản theo giá thị trường tại thời điểm giao dịch và Số tiền Phan Văn Anh Vũ đã thanh toán/nộp Ngân sách Nhà nước tại thời điểm giao dịch. Tức (2) – (1) = 1.893.213.822.503 đồng – 1.757.825.000.000 đồng = 135.388.822.503 đồng

Như vậy, theo cách tính thiệt hại này thì Tòa án đã xác định thiệt hại của một vụ án hình sự được xác định là thiệt hại phát sinh tại thời điểm xảy ra hành vi được xem là vi phạm pháp luật hình sự. Nếu cho rằng, các bên thuê đất, nhận giao đất, nhận chuyển nhượng nhà đất trái luật thì phải xét thiệt hại xảy ra tại thời điểm có các hành vi thuê, giao nhận đất đó.

2. BẢN ÁN SỐ 158/2020/HS-PT NGÀY 12/5/2020 CỦA TAND CẤP CAO TẠI HÀ NỘI XÉT XỬ BỊ CÁO TRẦN VĂN MINH VÀ CÁC ĐỒNG PHẠM VỀ TỘI “VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI SẢN NHÀ NƯỚC GÂY THẤT THOÁT, LÃNG PHÍ” VÀ TỘI “VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI”

– Số tiền Phan Văn Anh Vũ đã thanh toán/nộp Ngân sách Nhà nước tại thời điểm giao dịch thuê/nhận giao/nhậnchuyển nhượng nhà đất (được xem là thời điểm thực hiện hành vi phạm tội): 529.508.760.773 đồng (1)

– Giá trị tài sản theo giá thị trường tại thời điểm giao dịch (được cho là thời điểm thực hiện hành vi phạm tội): Chưa/không xác định (2)

– Giá trị tài sản theo giá thị trường tại thời điểm khởi tố (17/4/2018): 20.583.394.503.000 đồng (3)

CÁCH TÍNH THIỆT HẠI CỦA TAND CẤP CAO TẠI HÀ NỘI: Thiệt hại được tính là khoản chênh lệch giữa Giá trị tài sản theo giá thị trường tại thời điểm khởi tố và Số tiền Phan Văn Anh Vũ đã thanh toán/nộp Ngân sách Nhà nước tại thời điểm giao dịch. Tức là (3) – (1) = 20.583.394.503.000 đồng – 529.508.760.773 đồng = 20.053.885.742.227 đồng.

Với cách xác định thiệt hại này, thì tại thời điểm thực hiện hành vi được cho là vi phạm pháp luật, người bị buộc tội gây ra thiệt hại bao nhiêu trở nên không có ý nghĩa, mà các con số định giá tại thời điểm khởi tố được dùng làm cơ sở cho việc đo đếm hành vi vi phạm pháp luật có từ trước đó trong quá khứ.

Như vậy, cùng một TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI, nhưng qua hai bản án khác nhau, đối với một vấn đề tương tự khi xác định giá trị nhà đất giao dịch được xem là có sai phạm, lại có hai cách xác định thiệt hại không giống nhau, từ đó, trách nhiệm pháp lý của các chủ thể bị buộc tội trong cả vụ án sẽ chịu những hậu quả khác nhau, không chỉ riêng ông Phan Văn Anh Vũ …

Vậy, Tòa án tại bản án thứ nhất hay Tòa án tại bản án thứ hai đúng?

2. TỪ KẾT LUẬN CỦA HĐTP TAND TỐI CAO VỀ CÁCH XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI …

Trong cuốn A THEORY OF JUSTICE (1971), kiệt tác của John Bordley Rawls, có đoạn đại ý: “một xã hội công bằng thì sự bình đẳng về các quyền công dân và các quyền tự do đối với tất cả mọi người là không thể thay đổi, những quyền được công lý đảm bảo thì không thể đem ra mặc cả về chính trị hay những tính toán về lợi ích xã hội.” Điều mà John Rawls, triết gia được xem là có vai trò quan trọng nhất của thế kỷ 20 nói đến về công lý, như được chắt ra từ trong thực tiễn đời sống mà loài người trải qua, khát vọng vươn đến sự bình đẳng về các quyền công dân vẫn không có gì thay đổi, ở khắp nơi. Công lý chỉ là ảo ảnh nếu như việc thực thi luật pháp chứa đựng trong đó mục đích chính trị hoặc là cách thức để mặc cả lợi ích của các nhóm người khác nhau trong xã hội.

Hiến pháp Việt Nam tại Điều 31 nêu rõ người bị buộc tội cũng được đảm bảo công bằng trong điều tra, xét xử. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định các nguyên tắc cơ bản như quyền được bình đẳng trước pháp luật (Điều 9), nguyên tắc suy đoán vô tội (Điểu 13), nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 15) … để đảm bảo người bị buộc tội nào cũng như người bị buộc tội nào, họ phải được đối xử công bằng trong điều tra, truy tố, xét xử, họ không bị xem là có tội cho đến khi được cơ quan có thẩm quyền chứng minh theo luật định và có bản án kết tội có hiệu lực của tòa án.

Như vậy, nếu có các hoạt động chứng minh tội phạm nào đó được thực hiện khác đi, không công bằng đối với một chủ thể bất kỳ, không đúng trình thự thủ tục luật định, không đảm bảo quy định của pháp luật thì sẽ dẫn đến kết quả kết tội không đảm bảo công lý.

&

Ví dụ về một câu chuyện về việc xác định giá trị tài sản theo từng thời điểm khác nhau trong hoạt động tố tụng hình sự sẽ dẫn đến những hệ quả khác nhau như sau:

Ông A vào ngày 25.10.2018 trộm của nhà hàng xóm 1 lượng vàng SJC. Lúc đó, giá mua vào 36,49 triệu đồng/lượng – bán ra 36,65 triệu đồng/lượng.

Vì nhiều lý do, đến ngày 4.11.2020, ông A mới bị khởi tố bị can và tại thời điểm này, 1 lượng vàng SJC có giá mua vào là 56,30 triệu đồng/lượng và giá bán ra có ngưỡng 56,77 triệu đồng/lượng.

Vậy, giá vàng được tính ở thời điểm nào để xác định trách nhiệm pháp lý mà ông A phải chịu?

Đối chiếu với quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về tội trộm cắp tài sản thì với giá trị tài sản trộm cắp là 1 lượng vàng quy ra tiền để tính tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp (dưới 50 triệu đồng) thì ông A có thể chỉ bị xử lý trách nhiệm theo định khung hình phạt theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự (BLHS), thế nhưng nếu đến ngày 4.11.2020 mới khởi tố và xác định giá trị tài sản trộm cắp tại thời điểm này thì số tiền là trên 50 triệu đồng nên có thể bị xử lý trách nhiệm theo định khung hình phạt theo khoản 2 Điều 173 BLHS.

Nếu chúng ta được làm quan tòa hoặc các thẩm phán thực hành quyền xét xử một tình huống như vậy trên thực tế, chúng ta nghĩ ngay đến việc không thể xác định trách nhiệm pháp lý của ông A trên sự nhảy múa bất thường của giá vàng. Trách nhiệm pháp lý của ông A phải được xác định là tại thời điểm ông A trộm cắp 1 lượng vàng thì giá trị của nó được quy đổi thành bao nhiêu tiền đồng để xác định giá trị tài sản bị trộm cắp. Bởi ông A không thể chịu trách nhiệm cho hậu quả suy đoán đến từ tương lai vào thời điểm ông A có hành vi trộm vàng, sự biến đổi về giá cả hay các mất mát thực tế nếu có trong trường hợp này không phải được đặt trong một thỏa thuận dân sự, thương mại được giao kết bởi các bên, do đó các giả định trách nhiệm xảy ra trong tương lai không thể được áp dụng cho pháp luật hình sự, giả định thiệt hại trong tương lai không thể được xem là điều kiện mà chủ thể bị buộc tội buộc phải biết tại thời điểm họ thực hiện hành vi phạm pháp.

&

Trở lại với vấn đề của ông Phan Văn Anh Vũ, người bị bản án số 346/2019/HS-PT NGÀY 13/6/2019 CỦA TAND CẤP CAO TẠI HÀ NỘI (Bản án 346) kết tội về hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; bản án số 158/2020/HS-PT NGÀY 12/5/2020 CỦA TAND CẤP CAO TẠI HÀ NỘI (Bản án 158) kết tội về hành vi (với vai trò đồng phạm) vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí và hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai.

Với các hành vi đó, ông Vũ bị kết tội và kết luận là đã từ các hành vi vi phạm của mình dẫn đến việc được nhận giao đất, thuê đất, nhận chuyển nhượng nhà đất (là tài sản nhà nước) với giá trị thấp hơn giá trị thực tế, vì vậy đã gây ra thiệt hại cho nhà nước.

Như kỳ 1, chúng tôi đề cập, có một điều mâu thuẫn rất lớn là cùng một tòa án cấp cao tại Hà Nội nhưng có hai cách xác định thiệt hại khác nhau trong hai bản án.

Tại bản án 346, Tòa án xác định thiệt hại là số tiền chênh lệch mà nhà nước bị mất khi so sánh giữa giá trị thực tế trên thị trường vào thời điểm thực hiện hành vi so với giá trị thực tế giao dịch nhận chuyển nhượng nhà đất, thuê đất, nhận giao đất.

Tại bản án 158, Tòa án lại xác định thiệt hại là số tiền chênh lệch mà nhà nước bị mất khi so sánh giữa giá trị thực tế trên thị trường vào thời điểm khởi tố vụ án so với giá trị thực tế giao dịch nhận chuyển nhượng nhà đất, thuê đất, nhận giao đất.

Ở kỳ 1 của loạt bài phân tích pháp lý này, chúng tôi đã đặt vấn đề là cũng Tòa án cấp cao tại Hà Nội, nhưng theo bản án 346 hay bản án 158 đúng. Để kết lại việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đúng hay sai của hai bản án nêu trên, chúng tôi trích nguyên văn nội dung kết luận của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Quyết định giám đốc thẩm số 14/2019/HS-GĐT ngày 05.12.2019 như sau:

“Về việc xác định thiệt hại trong vụ án: Khoa học pháp lý và pháp luật hình sự đều quy định việc xác định thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra được xác định tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Đây là cơ sở để xác định trách nhiệm hình sự của bị cáo. Tại kết luận điều tra số 147/KLĐT-C01 ngày 28/12/2018, Cơ quan điều tra Bộ Công an xác định hậu quả của vụ án là 135.388.822.503 đồng – là số tiền chênh lệch của 07 tài sản Nhà nước được chỉ định bán và cho thuê quyền sử dụng đất không qua đấu giá theo quy định của pháp luật tại thời điểm các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Thiệt hại được giám định tại các thời điểm khác nhau như: khởi tố vụ án, xét xử vụ án, thi hành án để làm cơ sở xem xét trách nhiệm dân sự, trách nhiệm thi hành án, giải quyết mối quan hệ dân sự với người thứ ba… Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định thiệt hại của vụ án là 07 tài sản đã mua/thuê trái phép, đang bị kê biên là đầy đủ, đúng bản chất vụ án và giá trị của nó được xác định tại thời điểm các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là đúng pháp luật.”

Như vậy, nếu Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đúng, bản án 346 đúng, thì bản án 158 xác định thiệt hại tại thời điểm khởi tố vụ án là đi ngược lại với kết luận “đúng pháp luật” của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nêu trên.

Không dừng lại ở đó, trong các bản án buộc tội ông Phan Văn Anh Vũ, ngoài vấn đề thời điểm xác định thiệt hại, thì việc đánh giá thiệt hại để quy trách nhiệm pháp lý cũng như xác định trách nhiệm bồi thường cho nhà nước cũng cần được nhìn lại ở nhiều vấn đề, cụ thể:

Một là giá đất làm cơ sở định giá, theo khoản 2 Điều 114 Luật Đất đai 2013 có quy định căn cứ để tính tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai là Bảng giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua: “Bảng giá đất được sử dụng để làm căn cứ trong các trường hợp sau đây: đ) Tính tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai”

Như vậy, phải áp dụng giá đất do UBND thành phố Đà Nẵng ban hành tại thời điểm xảy ra vi phạm để xác định tiền bồi thường cho Nhà nước theo đúng quy định pháp luật đất đai, chứ không phải dùng giá thị trường.

Hai là về các phương pháp định giá đất, theo quy định tại Điều 4 Nghị định 44/2014/NĐ-CP thì: “1. Phương pháp so sánh trực tiếp là phương pháp định giá đất thông qua việc phân tích mức giá của các thửa đất trống tương tự về mục đích sử dụng đất, vị trí, khả năng sinh lợi, điều kiện kết cấu hạ tầng, diện tích, hình thể, tính pháp lý về quyền sử dụng đất (sau đây gọi là thửa đất so sánh) đã chuyển nhượng trên thị trường, trúng đấu giá quyền sử dụng đất để so sánh, xác định giá của thửa đất cần định giá”. Theo quy định này, việc định giá đất phải xem xét đến các yếu tố về điều kiện kết cấu hạ tầng, tính pháp lý về quyền sử dụng đất. Không thể lấy giá đất tại thời điểm 17/4/2018 (thời điểm Hội đồng định giá tài sản hình sự ở Trung ương định giá) khi thành phố Đà Nẵng đã có cơ sở hạ tầng khang trang, diện mạo theo quy hoạch sau đó trừ (-) đi số tiền thu vào ngân sách Nhà nước vào năm 2011 trở về trước để tính thành con số thiệt hại.

Ba là về tính pháp lý của các nhà đất được định giá, quyền sở hữu của Nhà nước với các nhà đất vắng chủ được xác lập khi Nhà nước không có sự đầu tư vốn từ ngân sách Nhà nước, không bỏ tiền ra mua, do đó không thể tính tương đồng với thửa đất bình thường được chuyển nhượng trên thị trường trong điều kiện bình thường được. Ngoài ra, nếu định giá tài sản tại thời điểm khởi tố vụ án thì không chỉ xem xét sự khác nhau về điều kiện kết cấu hạ tầng mà còn phải đánh giá, tính công sức cho các nhà đầu tư đã bỏ ra, nâng giá trị của nhà đất lên khi tại thời điểm mua bán có trường hợp chỉ là đất mặt nước ven biển, không có cơ sở hạ tầng, chưa được giải phóng mặt bằng, chưa đền bù cho người dân nay đã hoàn chỉnh điều kiện hạ tầng, giải quyết dứt điểm vấn đề bồi thường, công sức nâng giá trị đất đai …
&
Có những câu chuyện được đồn thổi và bàn luận về những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, về những vai trò, vị trí khác nhau trong những vụ án mà không hiểu vì sao sự quan tâm đến giá trị đúng hay sai của pháp luật không được đề cập đến, có những vấn đề pháp lý nếu soi chiếu bình thường vào các quy định sẽ tạo nên những lệch lạc mênh mông nhưng rồi có thể bị lờ đi, bỏ qua, bước ngang một cách lặng lẽ …

Không chỉ những điều mà John Rawls nói, nếu chúng ta vẫn mỗi ngày hướng đến việc pháp luật được thực thi công bằng đối với tất cả mọi người bị buộc tội, thì ông Phan Văn Anh Vũ cũng là một người bị buộc tội như vậy, những vấn đề pháp lý cũng có quyền được mở ra, trao đổi và hơn hết là có quyền được hướng đến nhu cầu rất bình thường: được xét xử công bằng …

3. ĐỒNG PHẠM HAY KHÔNG ĐỒNG PHẠM?

Những năm qua đã có nhiều vụ đại án với những người làm kinh doanh bị truy tố, kết án, trong đó có những cái tên sẽ đi vào lịch sử của một giai đoạn rất đáng để nhớ. Những Nguyễn Đức Kiên, Trần Bắc Hà, Đinh Ngọc Hệ, Phạm Công Danh, Trầm Bê, Phạm Nhật Vũ hay Phan Văn Anh Vũ … không chỉ là nhân chứng của những hoạt động kinh tế vừa sôi nổi nhưng cũng đầy xiêu xẹo mong manh.

Song song đó, nhiều nhân vật là quan chức, cựu quan chức chính trường bị sờ tới trong cái gọi là quyết tâm “đốt lò” để chống các tội phạm về tham nhũng.

Từ các sự kiện đó, cho thấy bề nổi của một cuộc phòng chống tội phạm đã được rầm rộ triển khai. Nếu công cuộc đó được triển khai đúng, khách quan, minh bạch, không mang trong lòng nó bóng ma phe nhóm, thì có thể không những môi trường kinh doanh, hệ thống quản trị chính quyền sẽ được dọn dẹp sạch đẹp để làm nên tảng cho đất nước phát triển, mà dân chúng cũng tôn nể sự vận hành của hệ thống tư pháp, hệ thống hành pháp.

Ngược lại, nếu cuộc phòng chống tội phạm bị hội nhóm lợi dụng sẽ dẫn đến việc dẹp các băng hội này chỉ để mở đường cho băng hội khác tung hoành, thì sẽ dẫn đến hậu quả là tội phạm không giảm đi, mà quốc gia dân tộc sẽ bị lũng đoạn, quyền lực bị thao túng, pháp luật bị coi thường.

Nếu pháp luật được sử dụng theo những cách mạnh yếu khác nhau tùy thuộc vào nhiệm kì quyền lực của một số người, pháp luật không phải nhân danh nhà nước mà là công cụ tồi cho việc triệt hạ lẫn nhau trong trò chơi và âm mưu quyền lực …

Pháp luật không bảo vệ quyền lợi của dân chúng, không đảm bảo cho các quyền cơ bản của công dân mà chỉ là công cụ cho trò chơi vương quyền là biểu hiện của sự thất bại của nhà nước pháp quyền. Đó là điều dân chúng trong mọi Nhà nước có pháp luật không chờ đợi …

&

Nền tư pháp vận hành thế nào sẽ thể hiện qua lăng kính xét xử các vụ án. Mọi người như một phải được đối xử và xét xử công bằng, ông nọ bà kia dù là truyền thuyết hay mô phỏng đồn thổi, thì khi đặt họ dưới quy trình tố tụng phải được đối xử công bằng, cách thức vận dụng pháp luật cũng phải dựa trên các nguyên lý tôn trọng và tuân thủ, cảm tính vu vơ và thực thi theo quyền lực vô hình sẽ tiêu diệt công dụng của nền tư pháp.

Ông Phan Văn Anh Vũ là một người bị buộc tội, các bản án xét xử đối với ông cái nào đúng, cái nào sai cũng cần được làm rõ trên nghĩa công bằng như vậy. Không chỉ ông Vũ, những người bị buộc tội khác cũng có quyền được xét xử công bằng như vậy.

Tại Bản án 158/2020/HS-PT NGÀY 12/5/2020 CỦA TAND CẤP CAO TẠI HÀ NỘI xét xử về 2 tội danh “Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” và “Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai” (Bản án 158) nêu rõ có 8 bị cáo kêu oan, cho rằng họ không phạm các tội bị truy tố, xét xử, đó là các công bà: Phan Văn Anh Vũ, Trần Văn Minh, Văn Hữu Chiến, Nguyễn Điểu, Nguyễn Thanh Sang, Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Quang Thành, Pham Minh Cương.

Riêng đối với ông Phan Văn Anh Vũ, Cáo trạng và Bản án 158 có những cáo buộc đối với ông Phan Văn Anh Vũ, được tóm lược là ông Vũ đã:

– Lợi dụng chủ trương trái pháp luật tại các văn bản pháp lý của UBND thành phố Đà Nẵng; lợi dụng mối quan hệ thân thiết với các cấp lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng để mua, nhận chuyển nhượng nhà đất công sản trái pháp luật.

– Lợi dụng những văn bản pháp lý của UBND thành phố Đà Nẵng để bàn bạc, thỏa thuận với Giám đốc Công ty Cổ phần Du lịch Đà Nẵng; Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Đà Nẵng, Công ty Cổ phần Công nghệ Phẩm Đà Nẵng và Công ty Cổ phần Cung ứng tàu biển Đà Nẵng đứng tên xin mua nhà công sản, xin giảm hệ số sinh lời.

– Lợi dụng công văn của Bộ Công an để các Công ty của ông Phan Văn Anh Vũ được mua nhà, đất công sản và giao, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, dự án không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất sau đó chuyển đổi sang tên cá nhân, từ đó hưởng các lợi ích vật chất.

Với các cáo buộc nêu trên, Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã quy kết ông Phan Văn Anh Vũ là đồng phạm nhưng giữ vai trò đặc biệt trong vụ án, từ đó tuyên phạt ông Phan Văn Anh Vũ mức án cao nhất trong tất cả các bị cáo bị đưa ra xét xử.

Thế nhưng, liệu các cáo buộc đó đã đúng luật, liệu bản án kết tội như thế đã đúng với tính chất thực sự của vụ án, chúng tôi bàn sơ một số ý sau đây.

I. VỀ VẤN ĐỀ CHỦ THỂ CỦA CÁC TỘI DANH THEO ĐIỀU 219, ĐIỀU 229 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015, SỬA ĐỔI BỔ SUNG NĂM 2017

Điều 219 Bộ luật Hình sự [Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí] quy định về chủ thể: “Người nào được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước mà vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản, gây thất thoát, lãng phí….”. Tiếp đó, Điều 229 Bộ luật này [Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai] tiếp tục điều kiện chủ thể: “Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích trái quy định pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây….”.

Như vậy, Điều 219 và Điều 229 Bộ luật Hình sự có điểm chung về tính chất chủ thể tội danh đều là chủ thể được giao quyền quản lý Nhà nước (trực tiếp quản lý các tài sản của Nhà nước hoặc có quyền hạn trong công tác giao đất, thu hồi, cho phép chuyển quyền, chuyển mục đích sử dụng đất), nói chung phải là các chủ thể mang quyền lực Nhà nước.

Trong khi đó, tại các thời điểm ông Phan Văn Anh Vũ có các hành vi bị quy kết vi phạm, ông Vũ không giữ chức vụ, quyền hạn gì liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước và quản lý đất đai nên việc bị quy kết là đồng phạm giữ “vai trò đặc biệt” trong tội danh chỉ áp dụng đối với chủ thể có chức năng quản lý nhà nước là điều hoàn toàn không thể hiểu.

II. ĐỒNG PHẠM HAY KHÔNG ĐỒNG PHẠM?

Để xác định ông Phan Văn Anh Vũ có là đồng phạm trong 02 tội danh tại Điều 219 và Điều 229 Bộ luật Hình sự cần xem đến quy định về đồng phạm tại Điều 17 Bộ luật Hình sự. Tại khoản 1 Điều này quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Cơ quan kiểm sát và Tòa án cần phải đưa ra các chứng cứ kết tội thể hiện giữa ông Vũ và các bị cáo khác phải có yếu tố bàn bạc, thống nhất ý kiến, tiếp nhận ý chí của nhau để cùng thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm một mục đích nhất định nào đó. Các chứng cứ chứng minh cho các yếu tố này phải là chứng cứ trực tiếp, chứng cứ vật chất để buộc tội. Không thể dựa vào những lời khai không được kiểm chứng, những đánh giá chủ quan để để buộc tội đối với bị cáo.

Nếu cáo buộc đồng phạm hoàn toàn dựa trên suy đoán chủ quan của các cơ quan tiến hành tố tụng, là vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật hình sự, và dựa trên suy đoán chủ quan đó, ông Vũ bị cáo buộc là đồng phạm một cách hoàn toàn không đúng pháp luật. Nhìn vào vụ án, ngay từ chính các nhận định của bản án 158 có thể thấy như sau:

1. Các chính sách quản lý tài sản, đất đai của thành phố Đà Nẵng bị đưa ra xem xét đều được ban hành trước thời điểm ông Phan Văn Anh Vũ có ý định nhận chuyển nhượng, đầu tư

Chính sách miễn giảm tiền sử dụng đất (10%) được thành phố Đà Nẵng bắt đầu áp dụng từ năm 2002, các chính sách khác như giao đất có thu tiền sử dụng đất không qua đấu giá, bán nhà đất công sản và giảm hệ số sinh lời đều được chính quyền thành phố áp dụng. Các chính sách này đều được UBND thành phố Đà Nẵng ban hành từ rất lâu trước khi ông Phan Văn Anh Vũ có ý định đầu tư. Hơn nữa, các chính sách này được áp dụng chung cho toàn bộ các đối tượng có nhu cầu, không phải được ban hành chỉ áp dụng riêng với ông Phan Văn Anh Vũ. Theo Thông báo số 160/TBKT-TTCP, ngày 17/01/2013 thông báo Kết luận Thanh tra số 2852/KL-TTCP, ngày 02/11/2012 của Thanh tra Chính phủ thể hiện có hàng trăm đối tượng đã thụ hưởng chính sách này và số tiền UBND thành phố Đà Nẵng đã giảm lên tới 1.313.684.812.164 đồng.

Vậy thì cũng như ông Phan Văn Anh Vũ, nếu có tội thì sẽ có hàng trăm, hàng ngàn người mua đất khác vướng vào vòng lao lý, trở thành bị can, bị cáo trong các vụ án tương tự. Việc kết tội cho người dân, doanh nghiệp mua đất đúng theo chính sách của cơ quan có thẩm quyền ban hành mà bị xem là vi phạm pháp luật thì sẽ không ai dám tin vào các quy định của nhà nước. Những rủi ro pháp lý như thế này giống như chiếc bẫy được giăng ra, lần này là ông Vũ, lần khác sẽ là ai? …

2. Không có chứng cứ thể hiện có việc bàn bạc, thống nhất ý kiến giữa ông Phan Văn Anh Vũ và các cơ quan ban ngành thành phố Đà Nẵng để cùng đưa ra chủ trương, chính sách trái pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước, đất đai nhằm thu lợi cá nhân.

Tại Bản kết luận điều tra, Cáo trạng hay trong Bản án đều xác định thời điểm bắt đầu các giao dịch mua nhà đất do ông Vũ thực hiện đều sau khi biết được chủ trương của UBND thành phố Đà Nẵng. Các nội dung mô tả về từng giao dịch đều có nhận định: “Biết được chủ trương….. bị cáo Phan Văn Anh Vũ liên lạc…. làm đơn”, “Từ những chủ trương, quyết định trái pháp luật….”, “Sau khi biết thông tin này….”. Cùng với đó, không có bất cứ tài liệu, văn bản nào thể hiện có sự bàn bạc, thảo luận, thống nhất ý kiến giữa ông Phan Văn Anh Vũ với các cấp ban ngành thành phố Đà Nẵng về quyết định chủ trương này. Ông Vũ chỉ thực hiện các giao dịch mua bán sau khi biết được các chính sách của thành phố. Nhưng ông Vũ không phải là người ban hành các chính sách lại không có chứng cứ chứng minh ông Vũ được quyền bàn bạc, thảo luận quyết định các chính sách thì không thể xác định hành vi bàn bạc trong đồng phạm. Thật kì lạ, nếu có việc một doanh nhân có thể tham chính chính sách, hoặc nếu đủ kì lạ như vậy, thì phải có chứng cứ buộc tội thuyết phục, không thể dựa trên suy luận chủ quan để buội tội…

3. Không có chứng cứ thể hiện các cơ quan thành phố Đà Nẵng, các cán bộ thành phố bị ông Phan Văn Anh Vũ tác động, được nhận lợi ích vật chất từ ông Vũ để ban hành các chính sách trái pháp luật.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã đặt câu hỏi cho tất cả các bị cáo: “có được hưởng lợi gì và có mối quan hệ như thế nào với Phan Văn Anh Vũ” thì các bị cáo đều trả lời không được hưởng lợi và không có mối quan hệ cá nhân với ông Vũ.

Tại Cáo trạng số 88/CT-VKSTC-V5, ngày 17/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (trang 80) đã nhận định: “Kết luận điều tra chưa chứng minh làm rõ được việc chia lợi ích của Phan Văn Anh Vũ với Trần Văn Minh và các đồng phạm khác để giúp sức cho Phan Văn Anh Vũ…”.

Tại Bản án sơ thẩm số 20/2020/HS-ST, ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, tại trang 158 cũng xác định: “Quá trình điều tra cho thấy các bị cáo thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng thực hiện hành vi vi phạm không vì động cơ cá nhân hay lợi ích vật chất nào khác, không được hưởng lợi”.

Nội dung này tiếp tục được Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội khẳng định tại Bản án phúc thẩm 158/2020/HS-PT, ngày 12/5/2020 (trang 160).

Như vậy, không chỉ có không có các chứng cứ về mục đích thực hiện tội phạm mà quá trình điều tra còn xác định rõ giữa ông Vũ với các cán bộ ban ngành thành phố Đà Nẵng không có mối quan hệ cá nhân, không vì động cơ cá nhân hay hưởng lợi từ ông Vũ để thực hiện các hành vi vi phạm.

4. Về nhận định ông Vũ lợi dụng mối quan hệ thân thiết với các cấp lãnh đạo Thành ủy, UBND thành phố Đà Nẵng để mua, nhận chuyển nhượng nhà đất công sản trái pháp luật

Nhận định này mang tính suy đoán theo hướng bất lợi cho ông Vũ, trái với quy định tại Điều 86 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015: “Chứng cứ là những gì có thật….” cũng như nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự về xác định sự thật của vụ án nêu tại Điều 15 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Thân thiết là như thế nào, thân thiết cho mục đích gì, thân thiết để thực hiện hành vi gì, thân thiết được thể hiện ở đâu, nếu chỉ thể hiện qua các lời khai vu vơ không kiểm chứng có thể buộc tội được không?

5. Về nhận định ông Vũ có hành vi bàn bạc với Giám đốc của một số Công ty đứng tên xin mua nhà cộng sản, xin giảm hệ số sinh lợi để có giá trị rẻ hơn rất nhiều so với thời điểm đó, sau đó sang tên cho cá nhân và công ty gây thiệt hại cho ngân sách đặc biệt lớn.

Thực tế là:
Các Công ty Cổ phần Du lịch Đà Nẵng, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Đà Nẵng, Công ty Cổ phần Công nghệ Phẩm Đà Nẵng và Công ty Cổ phần Cung ứng Tàu biển Đà Nẵng đều là các chủ thể được mua nhà đất vắng chủ và đều thuộc đối tượng được hưởng chính sách giảm hệ số sinh lời của UBND thành phố Đà Nẵng. Chính ông Trần Văn Minh trong các lời khai đã xác định UBND thành phố Đà Nẵng không giảm hệ số sinh lời cho bên mua (trong đó có ông Vũ) mà giảm cho các Công ty này, các công ty này được lợi chứ không phải ông Vũ, do vậy không thể nói ông Vũ bàn bạc với các Công ty này để xin giảm hệ số sinh lời nhằm mua lại nhà đất với giá rẻ. Quan hệ mua bán tài sản phát sinh sau đó không chứng minh được rằng một mình ông Vũ có thể tạo ra các chuỗi hành vi phát sinh lợi ích cho ông, và quan trọng hơn, bên mua tài sản không thể chịu trách nhiệm cho các hành vi vi phạm (nếu có) của bên bán.

Trình tự hồ sơ thể hiện các Công ty này có Tờ trình xin mua lại đất, sau khi được UBND thành phố Đà Nẵng quyết định đồng ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì không có nhu cầu sử dụng nên rao bán công khai, ai cũng được quyền tiếp cận. Việc mua bán chỉ xảy ra sau khi đã được sự đồng ý chủ trương của UBND thành phố Đà Nẵng. Thỏa thuận giữa các Công ty này với bên mua (không chỉ có ông Vũ) là các giao dịch dân sự như chính lời khai của các vị Giám đốc công ty, pháp luật cũng không cấm việc các tổ chức mua nhà đất công sản được quyền bán lại tài sản mà mình đã mua cũng như không hạn chế đối tượng được quyền tiếp cận, mua lại các tài sản này.

Riêng đối nhà đất tại 100 Bạch Đằng, phường Hải Châu 1, quận Hải Châu, Đà Nẵng là giao dịch mua bán giữa Công ty Cổ phần Du lịch Đà Nẵng với ông Ngô Áng Hùng, sau này ông Vũ mới mua lại nhà đất này từ ông Ngô Áng Hùng. Tương tự với nhà đất tại 20 Bạch Đằng, phường Hải Châu 1, quận Hải Châu, Đà Nẵng ông Vũ cũng là người thứ ba ngay tình mua lại từ ông Nguyễn Quang Thành, trước đó ông Thành giao dịch với Công ty Cổ phần Cung ứng Tàu biển Đà Nẵng. Như vậy với 02 nhà đất này ông Vũ không phải là người giao dịch trực tiếp với Công ty Cổ phần Du lịch Đà Nẵng hay Công ty Cổ phần Cung ứng Tàu biển Đà Nẵng, do vậy càng không có cơ sở để quy kết ông Vũ bàn bạc với Giám đốc các Công ty này để mua được nhà đất giá rẻ.

Như vậy, giữa ông Vũ và giám đốc các Công ty có sự thỏa thuận mua lại đất nhưng sự thỏa thuận sau khi đã được UBND thành phố Đà Nẵng đồng ý cho các Công ty được phép nhận chuyển nhượng. Theo quy định pháp luật và chính sách của thành phố, các Công ty này là đối tượng được phép mua đất, được hưởng chính sách giảm hệ số sinh lợi, UBND thành phố Đà Nẵng giảm hệ số sinh lợi cho các Công ty này, không phải giảm cho ông Vũ. Thiệt hại nếu có phát sinh thì từ giao dịch chuyển nhượng đất giữa UBND thành phố Đà Nẵng với các Công ty, đến ông Vũ là người mua thứ ba ngay tình.

6. Về nhận định ông Vũ lợi dụng mối quan hệ để được nhận nhiều dự án bất động sản tại các vị trí đắc địa của thành phố Đà Nẵng, từ đó kết tội ông Vũ có hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai.

Qua hồ sơ vụ việc đã thể hiện rất rõ, việc giao chủ trương các dự án là đúng theo quy định pháp luật. Thời điểm thu hút đầu tư các dự án này chưa giải tỏa mặt bằng, chưa được bồi thường nên theo quy định tại điểm g khoản 5 Điều 2 Nghị định 17/2006/NĐ-CP, ngày 27/02/2006 thì thuộc trường hợp giao đất thu tiền không qua đấu giá.

Riêng đối với Khu đất ký hiệu A2, A4, A6, A8 thuộc Khu phức hợp đô thị, thương mại và dịch vụ cao tầng tại phường Nại Hiên Đông và phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng được đưa ra bán đấu giá công khai, Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Công trình giao thông 586 do ông Võ Ngọc Châu là Tổng Giám đốc trúng đấu giá, sau này mới chuyển nhượng lại cho ông Vũ. Như vậy nếu xác định UBND thành phố Đà Nẵng sai ngay từ đầu, cho giảm 10% tiền sử dụng đất là sai thì người chịu trách nhiệm nếu phải có phải là Công ty 586 và nếu UBND thành phố Đà Nẵng không đồng ý với Tờ trình của Công ty 586 chuyển nhượng dự án lại cho ông Vũ thì ông Vũ đã không liên quan đến dự án này.

Vậy ông Phan Văn Anh Vũ đồng phạm hay không phải đồng phạm, tại sao là ông, chỉ một người mua tài sản trong nhiều người mua tài sản theo chính sách của Đà Nẵng thời kỳ đó bị tròng vào vai trò “đồng phạm đặc biệt”, chúng tôi chỉ gợi ra những vấn đề đó để không chỉ là đi tìm những điểm pháp lý cần phải nhìn lại, mà còn hy vọng pháp luật sẽ được thực thi đúng và làm cho chúng ta tin tưởng và tuân thủ …

4. BÀN VỀ QUYỀN KHỞI KIỆN CỦA ĐỒNG SỞ HỮU TÀI SẢN BỊ KÊ BIÊN

Tại trang 622, quyển 1a của bộ sách Game of Thrones (tác giả George R.R. Martin) có đoạn khi Tyrion Lannister bị Catelyn Stark bắt, sau bị cầm tù bởi em gái Catelyn là Lysa Arryn, vào lúc Lysa tra tấn và ép tội Tyrion rằng nhà Lannister giết chồng bà là Jon Arryn, Tyrion hét lên “Luật pháp của nhà vua ở đâu? Eyrie không phải là một phần của Bảy Phụ Quốc hay sao? Các ngươi nói, ta là bị cáo. Được thôi. Ta muốn được xét xử! Hãy để ta nói, và để sử thật hoặc sai lầm của ta được phơi bày trước ánh sáng, dưới tầm mắt của thần thánh và con người”.

Siêu phẩm giả tưởng của George R.R. Martin khi xây dựng một không khí ngột ngạt của chiến tranh, ái tình và âm mưu quyền bính đã lồng vào đó một đôi đoạn có đòi hỏi pháp luật cần được thực thi, dù rằng còn đó sự nhập nhằng giữa pháp luật của quân vương hay có khi là của thánh thần. Quyền được xét xử của người bị buộc tội trong trường hợp Tyrion Lannister thực ra là quyền được trải qua những quy trình tố tụng được luật định, quyền được chứng minh về sự thật và kể cả những sai lầm nếu có, đòi hỏi đó từ trong sử thi của một thời đại xa xưa vẫn là nguyện vọng của hiện tại, trong những quốc gia lấy pháp luật làm thước mực quản trị.

Quyền tham gia sân chơi tố tụng của các công dân trong xã hội của thời đại này đặt trong tính nhu cầu tối thiểu, không khác tiếng hét lên của Tyrion trong Game of Thrones, bởi suy cho cùng, câu chuyện của sử thi hay hiện tại, đều chứa trong trong lòng nó những trò chơi vương quyền, ở đó có vương quyền, nhưng cũng có trò chơi …

&

Trong bản án số 158 (đối với vụ án của ông Phan Văn Anh Vũ, như đã nêu ở các phần trước), thể hiện có những nội dung bất thường vội vã của hoạt động gom tài sản để kê biên, mà nếu chúng ta thử điểm qua một số điểm, rồi so với luật hiện hành thì có thể thấy có khi chúng ta cũng không hiểu được vì sao lại như thế. Điểm qua vài vấn đề như sau:

1. Tại khoản 3 Điều 128 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định nguyên tắc của việc kê biên tài sản là: “Chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại” Như vậy, tài sản bị kê biên được xác định theo tiêu chí tương ứng với mức phải bồi thường thiệt hại, khi đó phải có kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản để xác định giá trị mới được kê biên. Thế nhưng trong vụ án này, dù chưa có kết luận định giá đã tiến hành kê biên toàn bộ các tài sản được xem là có liên quan đến ông Phan Văn Anh Vũ, và chỉ cần có liên quan thôi là kê biên mà không xét đến các vấn đề liên quan, không xét đến các đồng sở hữu…

2. Pháp luật đã quy định rõ rằng chỉ kê biên các tài sản thuộc sở hữu của các bị can, bị cáo để tịch thu tài sản, đảm bảo nghĩa vụ thi hành án xuất phát từ hành vi vi phạm của chính các bị can, bị cáo đó. Hoạt động kê biên tài sản không được xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của các chủ thể khác. Tuy nhiên trong vụ án này, trong số các tài sản cơ quan điều tra kê biên, có những tài sản hoàn toàn đứng tên, thuộc sở hữu riêng của người khác không phải ông Phan Văn Anh Vũ cũng bị kê biên.

3. Ngoài ra, hàng chục tài sản khác là tài sản chung của vợ chồng ông Phan Văn Anh Vũ, tài sản thuộc sở hữu của công ty có nhiều thành viên cũng được tuyên buộc kê biên. Đối với các tài sản đứng của Công ty, không thể bảo đảm nghĩa vụ riêng cho bất cứ thành viên nào của Công ty, kể cả ông Phan Văn Anh Vũ. Việc sở hữu của các thành viên, cổ đông của công ty, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi chung của các cổ đông không được làm rõ, không được đánh giá. Do vậy, việc kê biên các tài sản này để đảm bảo thi hành án cho riêng nghĩa vụ (nếu có) của ông Phan Văn Anh Vũ là ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các cổ đông, thành viên khác trong Công ty.

Như vậy, hoạt động kê biên tài sản không dựa trên đánh giá, phân loại, thực thi các nghiệp vụ thẩm định thực tế đối với các tài sản nên không xác định được từng loại tài sản với tính chất sở hữu khác nhau, dẫn đến sẽ có những hậu quả không thể dễ dàng xử lý khi thi hành án.

&

Cũng có thể vì thực tế, khi xét xử các vụ án hình sự hoặc dân sự, bằng các cách thức đảm bảo để thi hành được các bản án, tòa án dùng các biện pháp khẩn cấp để kê biên các tài sản để đảm bảo cho việc thực thi các bản án, thế nhưng đến khi thi hành án, việc thẩm định tính chất sở hữu chung hay riêng, xác định tài sản kê biên là của ai để xử lý phải được tuân thủ nghiêm túc theo luật định.

Thế nhưng, những ngày qua, liên quan đến việc thực thi các bản án, đã có những hoạt động như muốn đẩy nhanh quá trình thi hành án mà không có những hoạt động nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của những người liên quan, các đồng sở hữu tài sản.

Bản án số 158 cũng quy định tại trang 179 như sau: “Dành quyền khởi kiện cho các cá nhân, tổ chức liên quan đến các dự án, nhà, đất công sản bị thu hồi bằng vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu”.
Còn quyền khởi kiện của các đồng sở hữu, những người có liên quan cũng đã được luật định tại các Điều 74, 75 Luật thi hành án dân sự 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014). Theo đó, Điều 74 quy định:

Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.

Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.

Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án.

2. Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung được xử lý như sau:

a) Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án;

b) Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

3. Chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản thuộc sở hữu chung.
Trước khi bán tài sản lần đầu đối với tài sản thuộc sở hữu chung, Chấp hành viên thông báo và định thời hạn cho chủ sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định trong thời hạn 03 tháng đối với bất động sản, 01 tháng đối với động sản; đối với những lần bán tài sản tiếp theo thì thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn ưu tiên mà chủ sở hữu chung không mua tài sản thì tài sản được bán theo quy định tại Điều 101 của Luật này.”

Khoản 1, Điều 75 cũng quy định:

“Trường hợp tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế để thi hành án mà có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền của họ được khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền.”

Như vậy, trước khi tiến hành việc xử lý các tài sản dù đã bị kê biên, thì chấp hành viên phải tiến hành các biện pháp để người bị thi hành án, người có liên quan, những đồng sở hữu thực hiện các quyền khởi kiện dân sự theo Bản án đã tuyên của Tòa án và theo quy định của Luật thi hành án dân sự.

Mọi hành vi cố làm cho nhanh, làm cho xong, làm cho kịp trách nhiệm hay làm theo quyền lực nhiệm kì mà bỏ qua hết các quy trình xử lý theo luật định, sẽ để lại những hậu quả không thể khắc phục.

&

Từ đòi hỏi của Tyrion Lannister trong sử thi cho đến quyền được luật định của công dân của một quốc gia có pháp luật, nhiều khi chỉ là tiếng thét bất lực vì nó vang lên trong cái lồng của những trò chơi vương quyền.

Nhưng, chẳng nhẽ, các trò chơi cứ lặp lại từng đoạn kiểu nhiệm kì như vậy, chẳng lẽ pháp luật không có vai trò của nó trong cái thời đại nó cần có vai trò?

5. XỬ LÝ THẾ NÀO ĐỐI VỚI CÁC GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA ĐỒNG SỞ HỮU?

Hàng xóm kêu rằng chiếc xe máy cho người bạn mượn đang bị tịch thu vì bạn dùng chiếc xe để vận chuyển hàng cấm, bị xử lý hình sự, tài sản tự nhiên mất, vậy anh hàng xóm nhà bạn có oan không?

Người vợ vô can ngơ ngác bị cưỡng chế thu hồi tài sản chung của hai vợ chồng khi chỉ người chồng vi phạm pháp luật, như vậy có được không?

Thử tìm hiểu các quy định liên quan đến việc tịch thu, thu hồi tài sản thuộc đồng sở hữu, hoặc sở hữu của người khác trong một vụ án hình sự điển hình …

&
Bản án số 346/2019/HS-PT (Bản án số 346) đã tuyên các giao dịch về việc mua/bán; thuê/cho thuê đối với 7 tài sản Nhà nước gồm nhà đất tại 319 Lê Duẩn, Dự án Vệt tại đường Trường Sa (TP Đà Nẵng) và 05 tài sản khác là vô hiệu. Các tài sản khác bị tạm giữ, tịch thu, kê biên …

Bản án số 158/2020/HS-PT (Bản án 158) cũng tuyên giao cho Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng thu hồi hàng loạt nhà, đất; tuyên kê biên hàng loạt nhà đất khác để đảm bảo thi hành án cho cá nhân ông Phan Văn Anh Vũ…

Vấn đề là, trong nhiều tài sản đó, tiền bạc để đi mua tài sản, công sức tạo dựng nên các tài sản đó không phải thuộc sở hữu của một mình ông Vũ …

XỬ LÝ HẬU QUẢ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ ĐỐI VỚI TÀI SẢN THUỘC SỞ HỮU CHUNG NHƯ THẾ NÀO?

Theo quy định của pháp luật, người phạm tội có thể vừa bị xử phạt theo các hình phạt theo Điều 32 Bộ luật hình sự 2015, nhưng đồng thời cũng có thể bị bị áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định theo Điều 46 Bộ luật hình sự 2015.

Theo bản án 346, 158 thì về trách nhiệm hình sự ông Vũ bị xử phạt hình phạt chính là hình phạt tù, không có hình phạt bổ sung về tịch thu tài sản.

Do đó, các vấn đề trách nhiệm pháp lý liên quan đến việc xử lý tài sản của ông Vũ được áp dụng các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, theo đó ông Vũ có thể bị áp dụng các biện pháp tư pháp là: (i) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; (ii) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; (iii) Bắt buộc chữa bệnh.

Đây là các biện pháp tư pháp chỉ áp dụng đối với cá nhân tội phạm, những người khác không có liên quan và không có lỗi sẽ không bị xử lý tài sản của họ theo quy định cụ thể tại Điều 47 Bộ luật hình sự 2015.

Trên thự tế, bản án 346 đã tuyên tịch thu số tiền hưởng lợi là 135 tỷ đồng (bằng số thiệt hại), tịch thu 5.8 tỷ đồng được cho là lợi ích phát sinh từ tài sản đã nhận chuyển nhượng, tuyên tịch thu số tiền hơn 417 tỷ đồng bỏ ra nhận chuyển nhượng nhà đất (xác định là công cụ phương tiện phạm tội) …

Trong các số tiền đó, số tiền 417 tỷ đồng hay các tài sản nhà đất nếu được xem là công cụ, phương tiện phạm tội chỉ khi tài sản này thuộc sở hữu của duy nhất người bị buộc tội thì có thể được tịch thu theo các quy định của Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015. Thế nhưng, nếu số tiền đó là tài sản chung của vợ chồng, tài sản chung của các cổ đông khác của công ty, không phải tài sản của một mình ông Vũ.

Tương tự, trong bản án 158, có các tài sản đã bị tuyên thu hồi, nhưng rõ ràng quyền sở hữu tài sản bị thu hồi lại của cá nhân khác, không liên quan đến ông Vũ, hoặc tài sản bị thu hồi thuộc đồng sở hữu của ông Vũ với những người khác.

Theo quy định của Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, trong quá trình điều tra xử lý vụ án họ là bên thứ ba không có lỗi, không liên quan đến vụ án thì không thể thu hồi các tài sản thuộc sở hữu của những người liên quan đó. Căn cứ theo khoản 4 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, việc xử lý vấn đề phân chia quyền sở hữu chung dù là vật chứng được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Như vậy, ngay cả đối với vật chứng của một vụ án hình sự, các quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đều xác định chỉ có thể tịch thu toàn bộ tài sản là vật chứng của vụ án hình sự nếu tài sản đó là tài sản thuộc sở hữu duy nhất của người phạm tội, nếu tài sản của đồng sở hữu, tài sản của người khác mà những người đó không liên quan, không có lỗi thì phải dành cho họ quyền được sở hữu các tài sản đó, nếu tài sản đã được xác định rõ ràng thì trả lại cho họ, nhưng nếu chưa được phân chia thì phải trao cho họ quyền được giải quyết bằng một trình tự khởi kiện vụ án hình sự theo quy định tại khoản 4 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Dễ dàng nhận thấy rằng trước khi phát sinh việc nhận chuyển nhượng nhà đất, thì số tiền mà các doanh nghiệp, cá nhân dùng để mua nhà đất đó không có nguồn gốc từ việc vi phạm pháp luật mà có, số tiền đó là công sức tạo lập, là tài sản của chung vợ chồng hoặc tài sản góp vốn của các thành viên khác. Do đó, khi xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu trong vụ án hình sự trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 và theo quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì sẽ có hai hướng xử lý như sau:

– Một là, theo nguyên tắc dân sự, thì khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên phải hoãn trả lại cho nhau những gì đã nhận, nhà nước nhận lại nhà đất, người mua nhà đất nhận lại toàn bộ tiền.

– Hai là, theo quy định về tịch thu vật chứng của vụ án hình sự thì, chỉ tịch thu tài sản của người phạm tội, còn cá nhân khác liên quan có sở hữu tài sản thì dù là vật chứng cũng phải trả lại cho họ, nếu có tranh chấp về các tài sản này liên quan đến quyền sở hữu thì họ phải được giải quyết xử lý theo trình tự tố tụng dân sự theo luật định.

Tuy nhiên, nếu theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 thì vấn đề này được quy định như sau: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. 3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. 4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. 5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”

Như vậy, so với Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật dân sự 2015 chỉ quy định việc các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, không có quy định về việc tài sản giao dịch bị tịch thu khi giao dịch dân sự bị vô hiệu.

Bản án 346 áp dụng Bộ luật dân sự 2005, thế nhưng ngay cả trong trường hợp bất lợi hơn so với luật mới đó, thì rõ ràng, trong vụ án hình sự nếu chưa giải quyết được quyền lợi cho các bên thứ ba thì chính Bộ luật hình sự 2015 đã có quy định để các bên thứ ba liên quan đến tài sản chung bị tịch thu được quyền khởi kiện các vụ án dân sự để bảo vệ tài sản của mình. Pháp luật vì thế không tước đi quyền tài sản của những người không liên quan đến vụ án.

TỪ BẢN ÁN HÌNH SỰ ĐẾN QUYỀN KHỞI KIỆN DÂN SỰ CỦA CÁC BÊN THỨ BA TRONG QUÁ TRÌNH THI HÀNH ÁN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO?

Như đã nêu ở trên, Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tách ra vấn đề quyền khởi kiện dân sự đối với các tài sản bị tịch thu, thu hồi khi nó là vật chứng của vụ án cho các đương sự có chung quyền sở hữu tài sản đối với vật chứng.

Khi xét xử, tòa án có thể không điều tra để xử lý vấn đề dân sự, nhưng quyền khởi kiện dân sự của các bên thứ ba trong vụ án hình sự không bị tước đi, tài sản bị thu hồi, tịch thu trong vụ án hình sự không phải là tài sản đã được giải quyết tương tự như Án lệ số 38/2020/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 13/8/2020. Theo đó, từ nguồn án lệ là Quyết định giám đốc thẩm số 28/2019/DS-GĐT ngày 12-11-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tình huống án lệ đặt ra như sau: “Sau khi tài sản là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đã được phân chia bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì có người khác (không phải là đương sự trong vụ án đó) khởi kiện đòi quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đó.” Giải pháp pháp lý của Án lệ là: “Trường hợp này, Tòa án không thụ lý vụ án mới. Người có yêu cầu đòi quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của pháp luật.” Như vậy, vấn đề của án lệ số 38 là vấn đề tài sản đã được xử lý, đã được giải quyết, đã được phân chia về quyền sở hữu, đó không phải là tài sản bị xử lý theo thủ tục tố tụng.

Đối với bản án 346, 158 thì các tài sản được thu hồi không phải là các tài sản đã được giải quyết phân chia với các đồng sở hữu, các đồng sở hữu vẫn còn nguyên đó quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Điều này cũng phù hợp hoàn toàn với các quy định của pháp luật thi hành án dân sự, các tài sản bị kê biên để xử lý thi hành án phải được thực hiện trên nguyên tắc chỉ xử lý đối với tài sản của người bị thi hành án, những người khác không bị thi hành án mà tài sản thuộc sở hữu của họ bị thu hồi, kê biên thì họ có các quyền sau đây theo quy định tại Điều 74 Luật thi hành án dân sự 2008 đã được sửa đổi 2014:

“Điều 74. Xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án
1. Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.

Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án.

2. Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung được xử lý như sau:

a) Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án;

b) Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

3. Chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản thuộc sở hữu chung.

Trước khi bán tài sản lần đầu đối với tài sản thuộc sở hữu chung, Chấp hành viên thông báo và định thời hạn cho chủ sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định trong thời hạn 03 tháng đối với bất động sản, 01 tháng đối với động sản; đối với những lần bán tài sản tiếp theo thì thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn ưu tiên mà chủ sở hữu chung không mua tài sản thì tài sản được bán theo quy định tại Điều 101 của Luật này.”

Dựa vào các quy định được dẫn, tại Mục III.6 của Bản án số 158/2020/HS-PT, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã quyết định: “Dành quyền khởi kiện cho các cá nhân, tổ chức có liên quan đến các dự án, nhà, đất công sản bị thu hồi bằng vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu”.

Tương tự, đối với phần đã có hiệu lực do không bị sửa theo bản án 346, thì bản án sơ thẩm hình sự số 48/2019/HS-ST của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cũng đã tuyên dành quyền khởi kiện cho các tổ chức, cá nhân liên quan.

VẬY, NẾU KHI TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN, CƠ QUAN THI HÀNH ÁN MÀ KHÔNG THÔNG BÁO CHO CÁC ĐỒNG SỞ HỮU, CÁC BÊN LIÊN QUAN THỰC HIỆN QUYỀN KHỞI KIỆN DÂN SỰ ĐỐI VỚI CÁC TÀI SẢN BỊ THU HỒI LÀ VỪA TRÁI VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT, VỪA KHÔNG TUÂN THỦ CHÍNH CÁC BẢN ÁN ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT

Từ các nội dung được dẫn có thể thấy, không chỉ là các tài sản thuộc diện kê biên, mà theo các quy định được viện dẫn, dù là tài sản thuộc diện bị tịch thu, thu hồi trong vụ án hình sự, thì nếu đó là tài sản chung của các đồng sở hữu, tài sản của họ phải được bảo vệ, không thể thu hồi tài sản của những người không vi phạm pháp luật, phải trả lại tài sản cho họ hoặc thông báo để họ khởi kiện các vụ án dân sự để bảo vệ quyền của mình. Tài sản của các cổ đông/thành viên của công ty, tài sản chung của vợ chồng, tài sản của bên thứ ba ngay tình không thể bị thu hồi hết để xử lý trách nhiệm cho một người vi phạm.

Luật sư Lê Cao – Công ty Luật FDVN

Bài viết liên quan